Thứ Ba, 26 tháng 9, 2023

[Đàn bồ câu phường Seongbuk - Kim Gwang-seop]

 



Ở phường Seongbuk phía sau Thành Quân Quán có một mảnh vườn nhỏ mang tên "Công viên bồ câu" - gợi nhớ về nơi từng là nhà của lũ chim hiền lành ấy, cũng là nơi nhắc nhở con người về góc tối của quá trình công nghiệp hóa. Năm 1968, giữa làn sóng đô thị hóa ở Seoul, nhà thơ Kim Gwang-seop đã viết tác phẩm "Đàn bồ câu phường Seongbuk" (성북동 비둘기). Ngày nay khi đến thăm công viên bồ câu ở Seongbuk, người ta vẫn có thể tìm đọc lại nguyên văn bài thơ này.
[Đàn bồ câu phường Seongbuk - Thơ: Kim Gwang-seop]
Người ta đã gắn thêm biển số nhà
Nơi ngọn núi bên phường Seongbuk
Chỉ có đàn bồ câu
Nay bỗng chốc hóa kẻ không nhà
Ngay từ sáng tinh mơ
Đàn bồ câu nháo nhác
Trong tiếng khoan vỡ đá
Rạn nứt cả trái tim
Dẫu vậy đàn bồ câu
Vẫn lượn vòng trên bầu trời Seongbuk
Vì người dân truyền đi lời chúc phúc
Bầu trời sáng trong xanh
An lành như nước Chúa
Hẻm núi khô cằn phường Seongbuk
Khoảng sân rộng đàn bồ câu sà đến kiếm ăn
Nơi chúng lặng thinh nhặt từng hạt đậu
Nay đã thành công trường phá đá
Ngày lại qua thuốc nổ vang rền
Đàn bồ câu ngồi trên mái nhà lánh nạn
Hít hà mùi nước hoa trong đám khói than
Rồi chúng lại bay về công trường đá
Lau miệng bằng hơi ấm
Nơi mảnh đá mới vừa nhặt được
Ngày trước,
Đàn bồ câu tượng trưng
Cho tình yêu, hòa bình
Chúng gần gũi bên người
Coi người như hiền thánh
Cũng nồng ấm yêu thương
Cũng hòa bình tận hưởng
Giờ đây,
Chúng bỗng bị xua đuổi
Chẳng còn có tình yêu
Hay tư tưởng hòa bình
Đàn bồ câu mất núi
Chúng mất cả con người
Trần Tùng Ngọc dịch

Nguyên tác: 성북동 비둘기

성북동 산에 번지가 새로 생기면서
본래 살던 성북동 비둘기만이 번지가 없어졌다.
새벽부터 돌 깨는 산울림에 떨다가 가슴에 금이 갔다.
그래도 성북동 비둘기는
하느님의 광장 같은 새파란 아침 하늘에
성북동 주민에게 축복의 메시지나 전하듯
성북동 하늘을 한 바퀴 휘 돈다.

성북동 메마른 골짜기에는 조용히 앉아 콩알 하나 찍어 먹을
널찍한 마당은커녕 가는 데마다 채석장 포성이 메아리쳐서
피난하듯 지붕에 올라앉아
아침 구공탄 굴뚝 연기에서 향수를 느끼다가
산 1번지 채석장에 도로 가서
금방 따낸 돌 온기에 입을 닦는다.

예전에는 사람을 성자처럼 보고
사람 가까이서 사람과 같이 사랑하고
사람과 같이 평화를 즐기던 사랑과 평화의 새 비둘기는
이제 산도 잃고 사람도 잃고
사랑과 평화의 사상까지
낳지 못하는 쫓기는 새가 되었다.

Tranh tự họa - Yun Dong-ju

 


Vòng qua góc núi, rảo bước tìm về
Giếng nước bên đồng, lặng nhìn bản thân
Trong lòng giếng
Trăng sáng mây trôi, bầu trời rộng mở
Gió biếc thổi qua, mùa thu còn đó
Chàng trai trong giếng, đưa mắt nhìn tôi
Còn tôi quay bước, chẳng muốn thấy người
Cất bước ra đi, lòng đầy suy nghĩ
Tội nghiệp chàng trai, tôi quay trở lại
Đặng thấy chàng trai, người còn ở đấy
Tôi quay bước lại, mỗi bước trở về
Tâm tư bề bộn, hình bóng chàng trai
Trong lòng giếng
Trăng sáng mây trôi, bầu trời rộng mở
Gió biếc thổi qua, mùa thu ghé lại
Có một chàng trai, tựa miền ký ức.
Trần Tùng Ngọc dịch

Nguyên tác: 자화상 - 윤동주
산모퉁이를 돌아 논가 외딴 우물을 홀로 찾아가선 가만히 들여다봅니다.
우물 속에는 달이 밝고 구름이 흐르고 하늘이 펼치고 파아란 바람이 불고 가을이 있습니다.
그리고 한 사나이가 있습니다.
어쩐지 그 사나이가 미워져 돌아갑니다.
돌아가다 생각하니 그 사나이가 가엾어집니다.
도로 가 들여다보니 사나이는 그대로 있습니다.
다시 그 사나이가 미워져 돌아갑니다.
돌아가다 생각하니 그 사나이가 그리워집니다.
우물 속에는 달이 밝고 구름이 흐르고 하늘이 펼치고 파아란 바람이 불고 가을이 있고 추억처럼 사나이가 있습니다.

Chủ Nhật, 10 tháng 9, 2023

Khúc biệt ly - Park Mok-wol



Em nói điều chi, bờ bên nớ
Em nói điều chi, trong gió thoảng
Tiếng gọi tôi hòa cùng tiếng gió
Nơi mũi thuyền xuôi bên nớ bên ni
Em nói điều chi, nói điều chi
Sợi thừng bện đã cũ sờn mục nát
Lời ly biệt, đừng buông lời ly biệt
Chỉ thấy tung bay vạt áo trắng em……
Em hãy đợi tôi, hãy đợi tôi
Dẫu bên ni hay là bên tê……
Dẫu bên ni hay là bên tê
Duyên mình đó, rừng lau heo hút gió
Em nói điều chi, bờ bên nớ
Thanh âm em, vẳng theo làn gió
Em hãy đợi tôi, hãy đợi tôi
Tiếng gọi cũng mặc gió cuốn bay

Nguyên tác: 이별가

뭐락카노, 저편 강기슭에서

니 뭐락카노, 바람에 불려서

 

이승 아니믄 저승으로 떠나는 뱃머리에서

나의 목소리도 바람에 날려서

 

뭐락카노 뭐락카노

썩어서 동아밧줄은 삭아 내리는데

 

하직을 말자 하직 말자

인연은 갈밭을 건너는 바람

 

뭐락카노 뭐락카노 뭐락카노

니 흰 옷자라기만 펄럭거리고 ……

 

오냐. 오냐. 오냐.

이승 아니믄 저승에서라도 ……

 

이승 아니믄 저승에서라도

인연은 갈밭을 건너는 바람

 

뭐락카노, 저편 강기슭에서

니 음성은 바람에 불려서

 

오냐. 오냐. 오냐.

나의 목소리도 바람에 날려서.

Tôi, Natasha và con lừa trắng - Baek Seok

Vì tôi nghèo

đem lòng yêu Natasha xinh đẹp
đêm hôm nay
mưa tuyết lã chã rơi

Tôi yêu Natasha
mưa tuyết rơi lã chã
trong đêm tối quạnh hiu
tôi ngồi nâng chén rượu
và rồi tôi thầm nghĩ
tôi và Natasha
cưỡi trên lưng lừa trắng bước về miền sơn dã
đêm tuyết lã chã rơi
vào sâu miền núi thẳm, nơi chim khướu hót vang
nơi ấy tôi cùng nàng, sống trong lều tranh nhỏ
Mưa tuyết rơi lã chã
tôi nhớ Natasha
nàng lẽ nào không tới
trong không gian thầm lặng, nàng bước đến bên tôi:
"Đi về miền sơn dã, chẳng phải chịu thua đời
mà đi là bỏ lại, chốn gian trần nhiễu nhương"
Mưa tuyết rơi lã chã
Natasha xinh đẹp
cũng đem lòng yêu tôi
ở một nơi nào đó lừa trắng kêu ang ang
vì đêm nay đẹp quá

Nguyên tác: 나와 나타샤와 흰 당나귀

가난한 내가
아름다운 나타샤를 사랑해서
오늘밤은 푹푹 눈이 나린다

나타샤를 사랑은 하고
눈은 푹푹 날리고
나는 혼자 쓸쓸히 앉어 소주를 마신다
소주를 마시며 생각한다
나타샤와 나는
눈이 푹푹 쌓이는 밤 흰 당나귀 타고
산골로 가자 출출이 우는 깊은 산골로 가 마가리에 살자

눈은 푹푹 나리고
나는 나타샤를 생각하고
나타샤가 아니 올 리 없다
언제 벌써 내 속에 고조곤히 와 이야기한다
산골로 가는 것은 세상한테 지는 것이 아니다
세상 같은 건 더러워 버리는 것이다

눈은 푹푹 나리고
아름다운 나타샤는 나를 사랑하고
어데서 흰 당나귀도 오늘밤이 좋아서 응앙응앙 울을 것이다

Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2023

Sông (Thơ: Kim Sung-kyu)

 Sông

 


Trước ngày vào tiểu học, mẹ tôi băng qua sông, đến quán cơm đối diện, tôi bên này vẫy mẹ, vừa gọi vừa bước theo

 

Sông đưa mẹ qua bờ, đưa anh tôi đi mãi về thế giới bên kia, chuẩn bị con thuyền nhỏ tiễn bà xuống suối vàng.

 

Cha tôi uống ngà say, ngả mình trên cỏ ướt, giọt mồ hôi mải mướt, các chị vẫn tung tăng, mải đua theo đàn cá, chạy tít về nhà máy, chẳng biết tự lúc nào.

 

Lòng tham cướp đi cả, thảy mọi thứ của ta, liệu rằng còn bao nhiêu, thời gian trên trần thế, nhìn hàng cây trút lá, lòng dạ bỗng ngổn ngang, liệu sẽ đến bao giờ, đến lượt tôi rời bỏ nơi này mà ra đi.

 

Tôi chôn một viên bi, ở con ngõ sau nhà, mẹ đang bước qua cầu, rảo bước chóng về mau, hồn bà tôi la mắng, sao chẳng chạy nhanh hơn, bỗng đâu dòng lũ lớn, cuốn mất mẹ tôi đi, dẫu tôi khóc ướt mi, biết làm gì cho được.

 

Nhìn cả nhà tươi cười, cùng nhau ngồi trên chõng, ăn ngô luộc thong dong, tóc mẹ bạc như mây, các chị tôi nhỏ tuổi, ngồi quây quần hát ca, hồn nhiên vô tư lự.

 

Họ sẽ về tìm tôi, sẽ dặn tôi ăn cơm, tới khi nào mỏi miệng, gọi tên tôi vang dội, làm tôi phải trở mình.

 

Viết đôi ba dòng chữ, bó mình trong làn nước, lần đầu tôi thấy được, bóng tối dồn nơi đây, xóa nhòa đi gương mặt

 

Giờ xin người tha thứ, xin hiểu thấu cho con, hãy tha thứ cho con, viên bi kia ướt lệ, trong lòng đất còn vùi.  


Nguyên tác: 

 

 초등학교 입학 전, 강 건너편으로 다리가 놓였다 어머니는 그 강을 건너 식당으로 가고 나는 강 이편에서 어머니를 부르며 걸었다

 

강은 내 어머니를 강 건너로 데려가고 우리 형을 이 세상에서 데려가고 죽은 할머니에게 한척의 배를 마련해주었다

 

취한 아버지는 젖은 풀밭에 앉아 땀 흘리고 누나들은 송사리떼를 쫓아 공장으로 가, 나는 죽은 채 쏟아지는 햇살을 맞으며 행복했던가

 

욕심이 많아 모든 것을 빼앗긴, 죽지 않고 버티다 몇년을 더 살다, 허리에서 잎사귀를 뱉어내는 나무를 보며 이곳에서 걸어나갔는가

 

뒤안에 구슬을 묻고, 흘러갔는가 그 다리를 건너 어머니가 돌아오고, 죽은 할머니가 화를 내며 건너오라 울어도 홍수에 떠내려간 다리 밑에 서서

 

웃는 식구들을 본다 삶은 옥수수를 들고 평상에 앉아, 뭉게구름처럼 늙어가는 어머니, 철없이 합창을 하는 어린 누나들

 

나를 찾으러 올 것이다, 밥 먹으라고, 목이 쉬도록, 내 이름이 메아리로 돌아와 나를 흔들 때까지

 

글씨를 쓴다, 물 위에, 쪼그려앉아, 처음으로, 어둠이 앞다퉈 몰려와 얼굴을 지울 때까지

 

이제는 나를 용서하고, 나를 이해해야 한다고, 흙 속의 구슬처럼 우는, 나를 용서해야 한다고……



Mưa rào (Thơ: Kim Sung-kyu)

 Mưa rào

 


Ngày đi về nhà chồng, bà trồng một gốc cây

Ở bên kia ngọn núi, chẳng để một ai hay


Cành cây mọc vươn cao, ngọn chạm tới bầu trời

Rồi bà tôi qua đời, linh hồn theo ngọn cây, tìm đường về thiên giới


Bà tôi từng nói rằng, nếu kiếp này tạo nghiệp

Sau sinh làm cầm thú, chịu lao khổ nhọc nhằn

Nhưng ngay cả những ngày, bò nghỉ ngơi công việc

Bà tôi vẫn đội mưa, ra thăm đồng phát cỏ


Bà kể hồn người chết, sẽ bay lên bầu trời

Ở nơi trên cao ấy, liệu có mảnh sân phơi


Bà trên mảnh sân ấy, ăn chín miếng bánh gạo

Uống chín chén rượu nồng, rồi cất giọng ngân nga

Bà khóc rồi lại cười, theo điệu hò câu hát

Đến khi nào mỏi cổ, bắt chim trời về xơi

Nhảy lên theo điệu vũ, chẳng có nơi cõi trần


Gió reo bên kia núi, tiếng vọng còn đâu đây

Cây Thanh thất lá xanh, vươn đôi tay vùng vẫy

Vơ một nắm hư không, bỏ miệng nhai rau ráu

Khổ thịt trên bàn thờ, khói ngày ấy còn vương

      

Nỗi da diết đoạn trường, gọi mưa xa về tưới, cánh đồng người tốt tươi


Nguyên tác: 소나기

  

할머니는 시집와서 아무도 모르는 산 너머에 나무를 심었다

 

그 나무는 자라 하늘까지 닿았고

돌아가신 할머니는 나무 위로 올라갔다

 

짐승은 죄를 지어 일만 한다 하지만

소가 일하지 않는 날에도

비를 맞으며 밭고랑에서 김을 매던 할머니

 

사람이 죽으면 하늘로 간다 하니

하늘 어딘가에도 마당이 있을 것이다

 

그 마당에서 아홉 잔의 술과

아홉개의 떡을 먹으며 노래 부르면

호미는 말잔등으로 변해 달리고

타령조로 울다 웃고

목이 쉬면 까마귀를 달여 먹고

지상에서 추지 못한 춤을 출 것이다

 

산 너머에서부터 바람이 우는 소리

가죽나무가 팔을 허우적대며

흘러가는 공기를 입안에 우겨넣는다

고깃덩이가 제사상에서 냄새를 피우는 날

 

이르지 못한 간절함이 인간의 들판에 비를 부른다


Theo cánh chim trời (Thơ: Park Cheol)

 Theo cánh chim trời

 


Lý do của cuộc hẹn là để

Ngắm đàn vịt trời từ Siberia xa xôi

Bay về tung điệu vũ giữa bầu trời

 

Từ vịnh Cheonsu ở Seosan tới cửa sông Geumgang

Từ đầm Dongnimji ở Gogang tới đê biển Gocheonam ở Haenam

Chúng tôi về phương nam đi theo cánh chim trời

Từng bước chân vĩ đại in hình trên làn nước

Chỉ thấy bóng tối rợp trời mỗi lúc đàn chim qua

Đêm nghỉ ngơi ở cảng Julpo

Bóng tối và cái lạnh đuổi theo

Nghe nói rằng, sẽ có một ‘bước ngoặt’ trong điệu vũ của đàn chim

Ngoài ban công vào buổi sớm mai

Đi một quãng đường dài dẫu chẳng phải điều bình thường

Giống như cánh chim, theo cánh chim trời

Song chặng đường này một khi cất bước

Là sẽ cứ đi dẫu cho chẳng muốn đi

Vốn dĩ là một thời điểm nào đó

Sẽ phải sống, gắng chịu trong quạnh hiu

Ta gọi đó là vượt qua mùa đông

Đàn chim chỉ dừng lại mỗi nơi trong chốc lát

Như dòng nước mắt sẽ mau được hong khô


Dẫu thế nào chăng nữa

Chạy theo cánh chim trời

Nơi chúng ta muốn tới

Nơi chim trời kết đôi?

Nơi số phận rối bời chẳng thể làm gì khác?

Những cánh chim truyền đi vũ trụ chân diện mục

Ngàn cánh chim là một và một là bao la

Bóng chao liệng qua, màn đêm tĩnh mịch

 

Như thầm hiểu lý do của tình yêu muôn thuở

Tôi rời khỏi chỗ ở trước khi bình minh lên

Ngoảnh mặt lại với vũ điệu ‘bước ngoặt’

Những cánh chim tựa lưng vào nhau mà ngủ

Tiếng kêu trắng đêm

Giống như một gia đình sâm cầm đang sống ở giữa hồ

Phải chăng điểm bước ngoặt chính là

Khi tôi bí mật nhìn ngắm đêm qua

Điệu vũ trầm hương[1] của đàn chim trời

Khi chúng bỏ lại đằng sau cả cuộc đời bình dị

Và khi tôi trông thấy sinh mệnh vĩ đại nhất

Giữa bầu trời và mặt đất bao la

Như ánh lửa giữa mùa đông lạnh giá

Kiếp sống của tôi như đã tắt chẳng biết tự khi nào

Tôi bước ra ngoài, mọi câu hỏi giờ đây đều im bặt

Tựa hồ đo được hết chặng đường dài của một kiếp nhân sinh

 

Thông điệp cuộc hẹn dành cho tôi

Vỗ cánh bay giữa mùa vàng chẳng có ở trên đời

Buông mái chèo giữa hoàng hôn không có nơi trần thế

Giũ bỏ xác thân mình

Chẳng cần hỏi đó là gì cũng được

Tôi rảo bước trở về

Bầu trời lại vẽ lên rực đỏ

Bình minh hôm nay hé lộ nắng mai



[1] Điệu múa trầm hương (Trầm hương vũ) có từ thời Shilla (năm 57 TCN – năm 935) được dùng để múa dâng lên đức Phật. Điệu múa này được biết đến rộng rãi sau khi được biên soạn và trình bày bởi bậc thầy về âm nhạc truyền thống Hàn Quốc Hwang Byung-ki (1936 ~ 2018) - ND

Nguyên tác: 새를 따라서

그 모임의 까닭은 이렇다

시베리아를 떠나 멀리 날아온

가창오리 군무를 보겠다는 것

 

우리는 서산 천수만서 금강하구로

고창 동림지에서 해남 고천암으로

새를 따라 남하했다

거대한 발자국이 물 위에 남았고

어디든 도착하면 어둠이었다

어둠과 추위에 밀려

줄포서 하루를 묵는 밤

아침엔 베란다 밖으로

반전이 있을 것이라 했다

새들처럼, 새를 따라서

먼 길 가는 것이 예삿일은 아니지만

한번 따라나서면 이 길은

가고 싶지 않아도 가게 되어 있다

원래 어느 한 점이

쓸쓸히 타며 살아내는 것을

월동이라 하듯

잠시 한곳에 나앉았을 뿐

눈물도 결국 마르게 되는 것처럼

아무튼 새를 따라서

우리가 가고 싶은 곳이

짝 짓는 곳이라던가

빼도 박도 못 할 운명이라던가

떼는 하나라던가 하나가 무한대를 그리는

우주의 면모나 전하려고 그 많은 새가

어둠 속에 진동하진 않았을 것이다

 

남모르게 사랑해야 하는 이유를 알듯

반전을 외면한 채

나는 미명에 그대로 숙소를 나섰다

등을 대고 자던 이들처럼

밤새 앓는 소리로 봐서 호수에

물닭 가족이 사는 것 같았다

그게 반전일까

그들의 단출한 살림을 뒤로하고

지난밤 남몰래

새들이 그리는 침향무沈香舞를 보았을 때

그 겨울 촛불처럼

천지간

가장 큰 생명체를 보았을 때

나의 생은 끝난 거나 마찬가지였다

 

나는 의문 없이 문을 나섰다

생의 길이를 잴 수 있던 만큼

그 모임이 나에게 전하려는 말

지상에 없는 계절을 날아라

지상에 없는 노을을 저어라

제 몸을 빠져나오듯

그게 뭔지 굳이 묻지 않아도 발갛게

하늘이 다시 그려지고

돌아오니 오늘 아침이었다

[Đàn bồ câu phường Seongbuk - Kim Gwang-seop]

  Ở phường Seongbuk phía sau Thành Quân Quán có một mảnh vườn nhỏ mang tên "Công viên bồ câu" - gợi nhớ về nơi từng là nhà của lũ ...