Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2023

Sông (Thơ: Kim Sung-kyu)

 Sông

 


Trước ngày vào tiểu học, mẹ tôi băng qua sông, đến quán cơm đối diện, tôi bên này vẫy mẹ, vừa gọi vừa bước theo

 

Sông đưa mẹ qua bờ, đưa anh tôi đi mãi về thế giới bên kia, chuẩn bị con thuyền nhỏ tiễn bà xuống suối vàng.

 

Cha tôi uống ngà say, ngả mình trên cỏ ướt, giọt mồ hôi mải mướt, các chị vẫn tung tăng, mải đua theo đàn cá, chạy tít về nhà máy, chẳng biết tự lúc nào.

 

Lòng tham cướp đi cả, thảy mọi thứ của ta, liệu rằng còn bao nhiêu, thời gian trên trần thế, nhìn hàng cây trút lá, lòng dạ bỗng ngổn ngang, liệu sẽ đến bao giờ, đến lượt tôi rời bỏ nơi này mà ra đi.

 

Tôi chôn một viên bi, ở con ngõ sau nhà, mẹ đang bước qua cầu, rảo bước chóng về mau, hồn bà tôi la mắng, sao chẳng chạy nhanh hơn, bỗng đâu dòng lũ lớn, cuốn mất mẹ tôi đi, dẫu tôi khóc ướt mi, biết làm gì cho được.

 

Nhìn cả nhà tươi cười, cùng nhau ngồi trên chõng, ăn ngô luộc thong dong, tóc mẹ bạc như mây, các chị tôi nhỏ tuổi, ngồi quây quần hát ca, hồn nhiên vô tư lự.

 

Họ sẽ về tìm tôi, sẽ dặn tôi ăn cơm, tới khi nào mỏi miệng, gọi tên tôi vang dội, làm tôi phải trở mình.

 

Viết đôi ba dòng chữ, bó mình trong làn nước, lần đầu tôi thấy được, bóng tối dồn nơi đây, xóa nhòa đi gương mặt

 

Giờ xin người tha thứ, xin hiểu thấu cho con, hãy tha thứ cho con, viên bi kia ướt lệ, trong lòng đất còn vùi.  


Nguyên tác: 

 

 초등학교 입학 전, 강 건너편으로 다리가 놓였다 어머니는 그 강을 건너 식당으로 가고 나는 강 이편에서 어머니를 부르며 걸었다

 

강은 내 어머니를 강 건너로 데려가고 우리 형을 이 세상에서 데려가고 죽은 할머니에게 한척의 배를 마련해주었다

 

취한 아버지는 젖은 풀밭에 앉아 땀 흘리고 누나들은 송사리떼를 쫓아 공장으로 가, 나는 죽은 채 쏟아지는 햇살을 맞으며 행복했던가

 

욕심이 많아 모든 것을 빼앗긴, 죽지 않고 버티다 몇년을 더 살다, 허리에서 잎사귀를 뱉어내는 나무를 보며 이곳에서 걸어나갔는가

 

뒤안에 구슬을 묻고, 흘러갔는가 그 다리를 건너 어머니가 돌아오고, 죽은 할머니가 화를 내며 건너오라 울어도 홍수에 떠내려간 다리 밑에 서서

 

웃는 식구들을 본다 삶은 옥수수를 들고 평상에 앉아, 뭉게구름처럼 늙어가는 어머니, 철없이 합창을 하는 어린 누나들

 

나를 찾으러 올 것이다, 밥 먹으라고, 목이 쉬도록, 내 이름이 메아리로 돌아와 나를 흔들 때까지

 

글씨를 쓴다, 물 위에, 쪼그려앉아, 처음으로, 어둠이 앞다퉈 몰려와 얼굴을 지울 때까지

 

이제는 나를 용서하고, 나를 이해해야 한다고, 흙 속의 구슬처럼 우는, 나를 용서해야 한다고……



Mưa rào (Thơ: Kim Sung-kyu)

 Mưa rào

 


Ngày đi về nhà chồng, bà trồng một gốc cây

Ở bên kia ngọn núi, chẳng để một ai hay


Cành cây mọc vươn cao, ngọn chạm tới bầu trời

Rồi bà tôi qua đời, linh hồn theo ngọn cây, tìm đường về thiên giới


Bà tôi từng nói rằng, nếu kiếp này tạo nghiệp

Sau sinh làm cầm thú, chịu lao khổ nhọc nhằn

Nhưng ngay cả những ngày, bò nghỉ ngơi công việc

Bà tôi vẫn đội mưa, ra thăm đồng phát cỏ


Bà kể hồn người chết, sẽ bay lên bầu trời

Ở nơi trên cao ấy, liệu có mảnh sân phơi


Bà trên mảnh sân ấy, ăn chín miếng bánh gạo

Uống chín chén rượu nồng, rồi cất giọng ngân nga

Bà khóc rồi lại cười, theo điệu hò câu hát

Đến khi nào mỏi cổ, bắt chim trời về xơi

Nhảy lên theo điệu vũ, chẳng có nơi cõi trần


Gió reo bên kia núi, tiếng vọng còn đâu đây

Cây Thanh thất lá xanh, vươn đôi tay vùng vẫy

Vơ một nắm hư không, bỏ miệng nhai rau ráu

Khổ thịt trên bàn thờ, khói ngày ấy còn vương

      

Nỗi da diết đoạn trường, gọi mưa xa về tưới, cánh đồng người tốt tươi


Nguyên tác: 소나기

  

할머니는 시집와서 아무도 모르는 산 너머에 나무를 심었다

 

그 나무는 자라 하늘까지 닿았고

돌아가신 할머니는 나무 위로 올라갔다

 

짐승은 죄를 지어 일만 한다 하지만

소가 일하지 않는 날에도

비를 맞으며 밭고랑에서 김을 매던 할머니

 

사람이 죽으면 하늘로 간다 하니

하늘 어딘가에도 마당이 있을 것이다

 

그 마당에서 아홉 잔의 술과

아홉개의 떡을 먹으며 노래 부르면

호미는 말잔등으로 변해 달리고

타령조로 울다 웃고

목이 쉬면 까마귀를 달여 먹고

지상에서 추지 못한 춤을 출 것이다

 

산 너머에서부터 바람이 우는 소리

가죽나무가 팔을 허우적대며

흘러가는 공기를 입안에 우겨넣는다

고깃덩이가 제사상에서 냄새를 피우는 날

 

이르지 못한 간절함이 인간의 들판에 비를 부른다


Theo cánh chim trời (Thơ: Park Cheol)

 Theo cánh chim trời

 


Lý do của cuộc hẹn là để

Ngắm đàn vịt trời từ Siberia xa xôi

Bay về tung điệu vũ giữa bầu trời

 

Từ vịnh Cheonsu ở Seosan tới cửa sông Geumgang

Từ đầm Dongnimji ở Gogang tới đê biển Gocheonam ở Haenam

Chúng tôi về phương nam đi theo cánh chim trời

Từng bước chân vĩ đại in hình trên làn nước

Chỉ thấy bóng tối rợp trời mỗi lúc đàn chim qua

Đêm nghỉ ngơi ở cảng Julpo

Bóng tối và cái lạnh đuổi theo

Nghe nói rằng, sẽ có một ‘bước ngoặt’ trong điệu vũ của đàn chim

Ngoài ban công vào buổi sớm mai

Đi một quãng đường dài dẫu chẳng phải điều bình thường

Giống như cánh chim, theo cánh chim trời

Song chặng đường này một khi cất bước

Là sẽ cứ đi dẫu cho chẳng muốn đi

Vốn dĩ là một thời điểm nào đó

Sẽ phải sống, gắng chịu trong quạnh hiu

Ta gọi đó là vượt qua mùa đông

Đàn chim chỉ dừng lại mỗi nơi trong chốc lát

Như dòng nước mắt sẽ mau được hong khô


Dẫu thế nào chăng nữa

Chạy theo cánh chim trời

Nơi chúng ta muốn tới

Nơi chim trời kết đôi?

Nơi số phận rối bời chẳng thể làm gì khác?

Những cánh chim truyền đi vũ trụ chân diện mục

Ngàn cánh chim là một và một là bao la

Bóng chao liệng qua, màn đêm tĩnh mịch

 

Như thầm hiểu lý do của tình yêu muôn thuở

Tôi rời khỏi chỗ ở trước khi bình minh lên

Ngoảnh mặt lại với vũ điệu ‘bước ngoặt’

Những cánh chim tựa lưng vào nhau mà ngủ

Tiếng kêu trắng đêm

Giống như một gia đình sâm cầm đang sống ở giữa hồ

Phải chăng điểm bước ngoặt chính là

Khi tôi bí mật nhìn ngắm đêm qua

Điệu vũ trầm hương[1] của đàn chim trời

Khi chúng bỏ lại đằng sau cả cuộc đời bình dị

Và khi tôi trông thấy sinh mệnh vĩ đại nhất

Giữa bầu trời và mặt đất bao la

Như ánh lửa giữa mùa đông lạnh giá

Kiếp sống của tôi như đã tắt chẳng biết tự khi nào

Tôi bước ra ngoài, mọi câu hỏi giờ đây đều im bặt

Tựa hồ đo được hết chặng đường dài của một kiếp nhân sinh

 

Thông điệp cuộc hẹn dành cho tôi

Vỗ cánh bay giữa mùa vàng chẳng có ở trên đời

Buông mái chèo giữa hoàng hôn không có nơi trần thế

Giũ bỏ xác thân mình

Chẳng cần hỏi đó là gì cũng được

Tôi rảo bước trở về

Bầu trời lại vẽ lên rực đỏ

Bình minh hôm nay hé lộ nắng mai



[1] Điệu múa trầm hương (Trầm hương vũ) có từ thời Shilla (năm 57 TCN – năm 935) được dùng để múa dâng lên đức Phật. Điệu múa này được biết đến rộng rãi sau khi được biên soạn và trình bày bởi bậc thầy về âm nhạc truyền thống Hàn Quốc Hwang Byung-ki (1936 ~ 2018) - ND

Nguyên tác: 새를 따라서

그 모임의 까닭은 이렇다

시베리아를 떠나 멀리 날아온

가창오리 군무를 보겠다는 것

 

우리는 서산 천수만서 금강하구로

고창 동림지에서 해남 고천암으로

새를 따라 남하했다

거대한 발자국이 물 위에 남았고

어디든 도착하면 어둠이었다

어둠과 추위에 밀려

줄포서 하루를 묵는 밤

아침엔 베란다 밖으로

반전이 있을 것이라 했다

새들처럼, 새를 따라서

먼 길 가는 것이 예삿일은 아니지만

한번 따라나서면 이 길은

가고 싶지 않아도 가게 되어 있다

원래 어느 한 점이

쓸쓸히 타며 살아내는 것을

월동이라 하듯

잠시 한곳에 나앉았을 뿐

눈물도 결국 마르게 되는 것처럼

아무튼 새를 따라서

우리가 가고 싶은 곳이

짝 짓는 곳이라던가

빼도 박도 못 할 운명이라던가

떼는 하나라던가 하나가 무한대를 그리는

우주의 면모나 전하려고 그 많은 새가

어둠 속에 진동하진 않았을 것이다

 

남모르게 사랑해야 하는 이유를 알듯

반전을 외면한 채

나는 미명에 그대로 숙소를 나섰다

등을 대고 자던 이들처럼

밤새 앓는 소리로 봐서 호수에

물닭 가족이 사는 것 같았다

그게 반전일까

그들의 단출한 살림을 뒤로하고

지난밤 남몰래

새들이 그리는 침향무沈香舞를 보았을 때

그 겨울 촛불처럼

천지간

가장 큰 생명체를 보았을 때

나의 생은 끝난 거나 마찬가지였다

 

나는 의문 없이 문을 나섰다

생의 길이를 잴 수 있던 만큼

그 모임이 나에게 전하려는 말

지상에 없는 계절을 날아라

지상에 없는 노을을 저어라

제 몸을 빠져나오듯

그게 뭔지 굳이 묻지 않아도 발갛게

하늘이 다시 그려지고

돌아오니 오늘 아침이었다

Bánh nếp (Thơ: Park Cheol)

Bánh nếp

- Nói về sự thật


Giấc mơ biến thành đuôi, đuôi biến thành chân và cuối cùng hóa ra con ếch. Song cũng có những khi, sự thật trở thành đức tin, đức tin trở thành niềm tin, rồi niềm tin trở ra nhầm lẫn. Thế nhưng cái cây làm nên tờ giấy, tờ giấy làm nên cuốn sách, cuốn sách nên thơ, thơ chẳng biết đến cái gọi là sinh mệnh, nên chẳng có cây nào ra hoa rồi rời bỏ đi mất. 

 Tháng 4 năm 1952 cô bé từ vùng Yeonbaek miền Tây Bắc đến đây tị nạn. Ngày ấy, đàn cá chình tràn vào cả mạn thuyền. Đứa bé mồ côi dáo dác tìm chị dâu, trong mắt nó, chị là mẹ cũng là bạn đồng hành. Ba lần gian khổ, vượt vịnh băng đèo, qua suối qua đồng, đến một hồn đảo nhỏ xa xôi và lạ lẫm. Người ta gọi nơi ấy là Ganghwa. Không có nơi nào để đi, chị dâu chỉ biết tội nghiệp nhìn hoàng hôn buông xuống biển Tây trong từng đợt gió. Sững sờ thấy đứa nhỏ vừa non nớt vừa luộm thuộm, chủ nhà nghẹn ngào chẳng nói được nên lời. Tôi có thể vẽ ra chi tiết, dáng hình của cô bé ngày ấy, đứa trẻ phải bỏ nhà ra đi. Giữa chập chùng mưa bom và bão lửa. Đôi mắt bé thơ run lên vì sợ hãi.

 

Chủ nhà kéo đứa bé vào một căn phòng tối, bà thắp lên ngọn đèn chập chờn. Bà kể cho đứa bé, chị dâu nó khi ấy đang có bầu tháng cuối, định mang gạo từ Yeonbaek rời đi, lúc trên thuyền trúng phải mưa đạn Mỹ. Vai chị bị thương, bốn ngày sau trút hơi thở cuối cùng. Đứa bé trong bụng cũng cứ thế theo mẹ mà đi. Họ đắp cho chị một nấm mồ tạm, ở ngọn núi sau chợ Daeryong, hôm ấy chỉ còn một ngày nữa đến rằm, chủ nhà vừa dứt tiếng nước mắt đã lưng tròng.   

 Cô bé không rơi lấy một giọt lệ nào, chỉ mở mắt giậm chân đứng dậy. Nó bước ra phía sau, ôm chầm lấy túi ngủ. Xách lấy cạp quần, nhắn đi Incheon tìm anh trai rồi chủ nhà ra giếng xách nước. Cô bé không hề ngồi xuống chỉ ngẩng đầu lẳng lặng xoay người. Định đứng đó nguyên một đêm thức trắng. Cuối cùng hai vợ chồng chủ nhà đi trước, họ vượt qua con suối, lại xuyên rừng băng đèo, đến trước một nấm mồ bé bằng mu bàn tay. Không đợi họ chỉ chỗ, đứa bé nghẹn ngào nhào đến bên nấm mồ đắp vội. Chị dâu vừa là mẹ vừa là chị ruột, còn cô bé vừa như em lại cũng là con gái. Trời ở đâu và đất ở đâu, trần gian suối vàng liệu có rời nhau mãi. Sao giờ gặp chị, đứa bé vừa vui mừng vừa đau khổ, vừa căm giận nhưng cũng vừa uất ức. Không thể không lật tung tảng đá, cắt ngang thác ghềnh. Đột nhiên, nấm mồ tạm bắt đầu rung chuyển. Trong ánh mắt, bụi đất bay mù mịt, phần mộ chuyển mình. Rung lên lẩy bẩy.

 Rung lên. Nấm mồ đang rung lên. Sự thật đó mẹ tôi đã kể cho cả nhà mỗi khi có thể, như cơn gió tràn vào phòng mỗi khi có khe hở, ai cũng nghĩ đó chỉ là niềm tin hay đức tin mù quáng, chẳng một ai coi đó là sự thật. Đau đớn thay. Tôi chỉ cúi đầu tặc lưỡi. Những tôi tin điều đó là sự thật, đến giờ tôi vẫn biết ấy chính là sự thật, vì tôi đã từ đó bước ra.  

 Cái Tết năm nào, tuyết rơi dày còn tôi đã ngoài năm mươi. Thế giới của sự thật đã đến. Trước mặt cả nhà, tôi đã đặt dấu chấm cho câu chuyện ngày xưa của mẹ, đó hoàn toàn là sự thật, có những lúc sự thật tự nó đã là sự thật. Cả gia đình gật đầu, đến tận khi ấy, trên khuôn mặt u ám suốt cả đời của mẹ, chút ấm áp mới lại quay trở về. Mẹ ngoảnh lại, trào hai hàng nước mắt. Mẹ xoay người, tựa như cô thiếu nữ. Trên đôi môi còn đang cắn chặt đến bật máu, mẹ lại nói với chúng tôi thế này.

 Mẹ đã làm bánh nếp bỏ sẵn trong tay nải, nhưng không biết tại sao lại ôm nó đi rồi đặt trước nấm mồ. Thật ngớ ngẩn, ngớ ngẩn biết bao nhiêu. Cô bé già nua đã bao năm vẫn sống trong ngẩn ngơ như vậy, cuối cùng lại òa khóc lên lần đầu tiên trong đời.


Thơ: Park Cheol

Dịch: Trần Tùng Ngọc


Nguyên tác: 인절미

​-진실에 대하여

 꿈이 꼬리가 되고 꼬리가 뒷다리가 되고 뒷다리가 마침내 개구리가 된다. 거꾸로 진실이 신념이 되고 신념이 믿음이 되고 믿음이 착각이 되는 경우도 있다. 그러나 나무가 종이가 되고 종이가 책이 되고 책이 시가 되고 시가 생명이라는 걸 모른다고 해서 꽃 주고 달아날 나무는 없으려니.

 

서북 처자가 연백서 피난살이 나온 건 524월이었다. 뱃전으로 까나리가 몰리던 날이었다. 조실부모한 어린 이가 엄마 삼아, 동무 삼아 살붙이던 작은 올케를 찾아 세 번 만에 어렵사리 산에, 들에, 물을 건너 조막만 한 낯선 섬에 다다르니 이른바 강화 교동. 올케는 간 곳 없고 바닷바람만 측은히 서해낙조를 바라 볼 뿐이었다. 추레한 행색 여린 얼굴에 놀란 주인집은 말이 없었다. 나는 이때 포화 속에 처음 집을 떠난 어린 처자의 모습을 세밀화로 그릴 수 있다. 겁 지린 그 눈동자를.

 

주인은 애린 처자를 어둔 방으로 비끌고 등불을 켜선 꺼질듯 입을 열었다. 만삭의 올케가 고향 연백으로 쌀 가지러 간다고 나간 길에 뱃전서 미군 기총소사를 맞았구료. 어깨를 다쳐 업혀온 지 사흘 만에 결국 목숨을 놓았다오. 뱃속의 아이도 엄마를 따라갔지 뭐요. 대룡시장 뒷산에 가묘를 쌓았으니 그게 보름 전 일이라고 주인이 먼저 울었다.

 

어린 처자는 눈물은 보이지 않았다. 다만 자리에서 게 눈 뜨듯 발딱 일어섰다. 내처 뒷산으로 나서자며 보따리를 안아들었다. 내외는 처자의 허리춤을 잡았고 인천으로 일 떠난 오빠나 찾아보자며 우물물을 떠왔다. 처자는 앉지 않았다. 고개를 세우고 몸을 가로 저었다. 그리 서서 밤을 지샐 기세였다. 마침내 중늙은 양주가 앞서고 물길 건너듯 용동리 오리나무 숲길 지나 작은 언덕을 넘어서니 손등 같은 묘가 하나 나섰다. 저기라고 안주인이 말을 맺지 못하자, 처자가 숨 고르며 엄마 같고 언니 같던 어설픈 흙무덤 앞으로 성큼 다가섰다. 딸 같고 동생 같은 다 큰 시누이가 다가가자 젊은 올케는 참지 못했다. 하늘과 땅이 어디 있고 이승과 저승이 따로 있겠는가. 어찌나 반갑고 애가 타겠는가. 얼마나 분하고 억울하겠는가. 폭포라도 자르고 바위라도 헤치고 나서지 않을 수 없었을 것이다. 갑자기 부실한 가묘가 위아래로 흔들리기 시작했다. 굴절과 적멸의 바다. 아득한 눈빛 속에 흙가루를 흘리면서 산소가 몸을 떨었다. 부르르 요동을 쳤다.

 

흔들리더라. 산소가 흔들리더라. 이 진실을 어머니는 내내 문풍지 바람 새듯 틈만 나면 가족 앞에 풀어놓았으니 누구도 믿음이나 신념으로 들었지 진실로 여기지지는 않았다. 애통하도다. 고개 숙여 두루 혀만 찰뿐이었다. 그러나 나는 그 일이 진실이었음을 예나 지금이나 진실로 안다 내가 그 속에서 나왔으니까.

 

내가 쉰이 넘어 눈이 깊던 어느 설날. 진실의 세계가 왔다. 일가 앞에서 어머니 얘기는 사실이라고 세상엔 가끔 진실이, 그대로 진실이 되는 경우도 있다고 나는 종지부를 찍었다. 가족 모두가 고개를 끄덕였고 그때서야 어머니는 평생 어두웠던 얼굴에 화기가 조금 돌았다. 어머니는 돌아서 눈물을 흘렸다. 소녀처럼 몸을 돌렸다. 그리고 깨문 입술에 선혈이 흐르듯 선 채로 한 마디를 더하니 이러하였다.

보따리에 인절미를 해왔는데 이 미련한 것이 그걸 안고 가 왜 산소 앞에서 풀어놓을 생각을 못했는지 모르겠네. 내가 그렇게 미련해, 미련해. 그렇게 미련하게 살아왔다며 늙은 처자는 끝내 보는 이 처음으로 큰 울음을 터트렸다.

[Đàn bồ câu phường Seongbuk - Kim Gwang-seop]

  Ở phường Seongbuk phía sau Thành Quân Quán có một mảnh vườn nhỏ mang tên "Công viên bồ câu" - gợi nhớ về nơi từng là nhà của lũ ...