Bài viết nằm trong khuôn khổ Hội thảo Quốc tế “Giảng dạy ngôn ngữ và văn hoá Hàn Quốc ở Việt Nam” được tổ chức tại Trường Đại học Bà Rịa - Vũng Tàu vào ngày 16 –17/ 08/2019. Kỷ yếu Hội thảo đăng tải trênTạp chí Hàn Quốc do Hội NCKH về Hàn Quốc tại Việt Nam ấn hành.
Từ khóa: Phong trào sinh viên, dân chủ hóa, lịch sử Hàn Quốc
1.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong hai thập niên 1970 - 1980,
từ vũng bùn của chiến tranh, Hàn Quốc đã xác lập nên “kì tích sông Hàn” và trở
thành hình mẫu phát triển cho nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, cũng trong giai đoạn này, tại Hàn Quốc, tiếng nói của các đảng đối
lập và xã hội dân sự đã tỏ ra yếm thế trước chính quyền độc tài quân sự và
phong trào sinh viên đã nổi lên như một hiện tượng xã hội đặc biệt, đóng vai
trò tiên phong và thúc đẩy tiến trình dân chủ hóa đi đến thành công. Nghiên cứu
về phong trào sinh viên cùng những đặc
điểm của nó sẽ góp phần làm sáng tỏ cho quá trình dân chủ hóa tại Hàn Quốc.
Với hướng tiếp cận từ góc độ xung
đột xã hội và phong trào xã hội, mục đích nghiên cứu của bài viết là tìm hiểu
quá trình đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc (thập niên 1970 – thập niên
1980) tập trung về mặt đặc điểm và lý giải đặc điểm của phong trào. Công cụ
phân tích chính được sử dụng là phương
pháp lịch sử và phương pháp logic. Bài viết sử dụng các nguồn tư liệu nhằm tái
hiện trung thực quá trình nảy sinh và phát triển của phong trào đấu tranh dân
chủ sinh viên Hàn Quốc theo trình tự thời gian và không gian. Về phương pháp,
bài viết đã khảo cứu các tư liệu về lịch sử phong trào sinh viên tập trung vào
Báo cáo tổng kết của Hội kỷ niệm sự
nghiệp vận động dân chủ hóa Hàn Quốc, các sách chuyên khảo đã xuất bản của các
nhà nghiên cứu Hàn Quốc và Việt Nam liên quan đến đề tài dân chủ hóa, phong trào sinh viên,…
2. CƠ SỞ LÝ LUẬN XUNG ĐỘT XÃ HỘI VÀ PHONG TRÀO XÃ HỘI
Lý thuyết xung đột xã hội là một
trong số các lý thuyết được quan tâm
đặc biệt trong xã hội học hiện đại bên cạnh thuyết chức năng, tương tác biểu
trưng hay lựa chọn duy lý. Lý thuyết này chính thức nở rộ từ cuối thế kỉ XIX,
gắn liền với tên tuổi của các nhà xã hội học lớn như Karl Marx, Friedrich
Engels, Auguste Comte, Max Weber, Lewis Coser, Ralf Dahrendorf, Michel
Foucault, Randall Collins,… Các quan điểm về xung đột xã hội hầu hết đều hướng
tới những điểm cơ bản như: Xung đột xã hội là “sự biểu hiện của những mâu thuẫn khách quan hoặc chủ quan phản ánh
của chúng”; là “sự mâu thuẫn căng thẳng nhất thể hiện sự xung khắc giữa các
cộng đồng xã hội khác nhau - các giai cấp, các chủng tộc, các quốc gia, các
nhóm xã hội, các thiết chế xã hội…
do sự đối lập hoặc sự khác biệt đáng kể về lợi ích, mục đích, khuynh hướng phát
triển của chúng quyết định”[1].
Thông qua những khảo sát các quan
điểm về lý thuyết xung đột xã hội, có thể nhận thấy rằng, xung đột xã hội là sự
biểu hiện của mâu thuẫn xã hội (giữa các nhóm xã hội có lợi ích, mục tiêu đối
lập nhau) ra bên ngoài bằng các hình thức, mức độ cụ thể. Xã hội luôn luôn vận
động mang trong mình hàng loạt các cặp mâu thuẫn, đối lập, do vậy, sự tồn quan
nhằm giải quyết các mâu thuẫn vốn có. Xung đột xã hội đóng một vai trò tích cực
đối, là nhân tố thúc đẩy sự chuyển biến của xã
hội. Khi tiến hành nghiên cứu, phân tích một dạng thức của xung đột xã
hội chúng ta phải làm rõ bối cảnh mà nó tồn tại, mối quan hệ của nó với các yếu
tố khác trong xã hội.
Phong trào đấu tranh dân chủ của
sinh viên về bản chất chính là một dạng thức của một “phong trào xã hội”
với lực lượng tham gia là sinh viên. Phong trào xã hội, theo Từ điển xã hội học Oxford, là “một nỗ lực được tổ
chức bởi nhiều người nhằm tạo ra sự biến đổi (hoặc ngăn chặn sự biến đổi) trong
một hay một vài khía cạnh chủ yếu của xã hội”[2]. Phong trào xã hội khác
với hành vi tập thể ở chỗ nó là một hành vi xã hội có chủ đích và có tổ chức,
có tính liên tục nhất định. Dựa
trên quan điểm đó, phong trào đấu tranh dân
chủ của sinh viên được nhìn nhận dựa trên các góc độ chính: (1) Lực
lượng lãnh đạo, (2) Đối tượng hướng đến, (3) Mục đích đấu tranh (4) Địa bàn đấu
tranh, (5) Phương pháp đấu tranh, (6) Vai trò và ý nghĩa.
2. QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH DÂN CHỦ CỦA SINH VIÊN HÀN QUỐC
(THẬP NIÊN 1970 – THẬP NIÊN 1980)
2.1. Phong trào đấu tranh thập niên 1970
Phong trào sinh viên Hàn Quốc
thập niên 1970 có thể chia ra làm ba thời kì lớn như sau: Thời kì phát triển;
Thời kì suy yếu và Thời kì phục hồi[3].
Thời kì
phát triển bắt đầu từ ngày 15/10/1971 khi Tổng thống Park Chung Hee phát Lệnh Bảo an đến trước ngày 2/10/1973,
ngày xảy ra cuộc biểu tình của sinh viên Đại học Muli SNU (còn gọi là biểu tình
10/2). Tiêu biểu cho thời kỳ này là các cuộc đấu tranh phản đối quân sự hóa trường
học, với sự ra đời của Liên minh Sinh
viên Thanh niên Bảo vệ Dân chủ Toàn quốc Toàn
quốc.
Thời kì suy
yếu,
tính đến ngày 22/5/1975, ngày diễn ra cuộc thị uy truy điệu liệt sĩ sinh viên
Kim Sang Jin của SNU (còn gọi là biểu tình 22/5). Thời kì này, phong trào vẫn
tiếp tục nổ ra song do sức ép của chính quyền với nhiều biện pháp đàn áp, cưỡng
chế nên đã không thể tiến hành nhiều hoạt động công khai như ở giai đoạn trước.
Thời kì phục hồi ứng với khoảng thời gian
chính quyền phát động lệnh khẩn cấp số 9. Đặc trưng cơ bản thời kỳ này là các
tổ chức phong trào sinh viên thu hẹp về quy mô nhưng phát triển về chất lượng
đội ngũ. Biểu tình Buma (10/1979) là cao trào mạnh mẽ nhất của phong
trào đấu tranh dân chủ sinh viên trong thập niên 1970. Xuất phát từ cuộc biểu
tình của sinh viên tại hai thành phố Busan và Masa, sự kiện này được đánh giá
là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến biến cố 26/10
với sự kiện Tổng thống Park Chung Hee bị ám sát, chấm dứt thời gian cầm
quyền của ông trong suốt hơn 15 năm.
2.2. Phong trào đấu tranh thập
niên 1980
Phong trào thập niên 1980 có thể
chia thành 4 giai đoạn cơ bản như sau: Thời kỳ “Mùa xuân Seoul” (1980) với đỉnh
cao là Phong trào Dân chủ Gwangju (5/1980); thời kỳ tạm lắng “hậu Gwangju”
(1980 – 1985); thời kỳ phục hồi và phát triển cao trào (1986 – 1987) với đỉnh
cao là Phong trào Dân chủ tháng Sáu (1987) và cuối cùng là Thời kỳ đầu Đệ lục
Cộng hòa (1988 – 1990).
Thời kỳ Mùa xuân Seoul (đầu năm 1980) phong
trào sinh viên Hàn Quốc tỏ ra kiềm chế hơn trong các hoạt động biểu tình, giảm
thiểu sự đụng độ với chính quyền. Trong giai đoạn, trong Phong trào Dân chủ Gwangju giữa
người biểu tình (chủ yếu là sinh viên) với quân đội đã có hơn 150 người chết,
hàng nghìn người khác bị thương.
Thời kỳ tạm lắng “hậu
Gwangju” (1980 – 1985) là giai đoạn chính quyền Chun Do Hwan tìm cách xoa dịu dư
luận để chuẩn bị tranh cử tổ chức Thế vận hội năm 1988 song vẫn có sự cảnh giác
với những động thái của sinh viên ở các trường đại học qua việc bố trí lượng an
ninh, mật vụ được khắp các trường.
Thời kỳ phục hồi và phát
triển cao trào (1986 – 1987) là giai đoạn diễn ra sự kết hợp giữa phong trào sinh viên với
các phong trào xã hội khác đã được huy động thành một “mặt trận dân chủ hóa”. Tháng
6/1987, Phong trào Đấu tranh Dân chủ tháng Sáu đã diễn ra với quy mô
trên 1 triệu người biểu tình khiến chính quyền mất khả năng kiểm soát tình hình
trong nước, phải ra Tuyên bố 29.6 và chuẩn bị cho sự ra đời Hiến pháp Dân chủ
(1987).
Thời kỳ đầu Đệ lục Cộng
hòa (1988 – 1990), phong trào sinh viên đã có sự phân hóa. Tiếng nói chính
trong phản biện xã hội được truyền lại cho các đảng phái đối lập, phong trào
lao động và một số tổ chức xã hội dân sự khác.
Phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên về cơ bản đã hoàn thành được vai trò
lịch sử của nó.
3. ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN PHONG TRÀO ĐẤU TRANH DÂN CHỦ CỦA SINH
VIÊN HÀN QUỐC (THẬP NIÊN 1970 – THẬP NIÊN 1980)
3.1. Sinh viên là lực lượng tiên phong trong tiến trình dân chủ hóa
Xét từ góc độ vị thế xã
hội,
giới sinh viên bao gồm những người thuộc thế hệ trẻ, tương lai của đất nước, họ
nhận được sự quan tâm, chú ý của toàn xã hội. Mặt khác, sinh viên cũng có mối
quan hệ hữu cơ, gắn bó mật thiết với trí thức, công chức,… và đặc biệt là tầng
lớp trung lưu thành thị. Xét từ góc độ đặc trưng tâm lý: sinh
viên là những người trẻ, sống trong môi trường Đại học - môi trường của tri
thức. Họ là đội ngũ những người khao khát tiếp thu cái mới, tự khẳng định mình,
đồng thời nhanh chóng học tập những giá trị từ bên ngoài như dân chủ, tự do,
cống hiến cho xã hội.
Trong bối cảnh xã hội khi đó, giai
cấp công nhân Hàn Quốc chưa đủ lớn mạnh và còn tồn tại nhiều hạn chế về thành
phần lực lượng, truyền thống Nho giáo và đặc thù ý thức hệ khiến cho họ chưa
thể trở thành lực lượng dẫn đầu trong tiến trình dân chủ hóa[4]. Tầng lớp trung lưu mới
mặc dù có ý thức đấu tranh dân chủ nhưng số lượng còn nhỏ lẻ, phân tán, tập
trung vào từng mảng riêng biệt của đời sống xã hội nên khó có thể trở thành một
lực lượng thống nhất. Trước tình hình đó, giới sinh viên đã nhanh chóng trở
thành lực lượng tiên phong trong tiến trình dân chủ hóa.
3.2. Mục đích đấu tranh từ dân
chủ hóa trường học đến dân chủ hóa xã hội
Mục đích ban đầu của phong trào
sinh viên giai đoạn thập niên 1970 xuất phát từ việc đề đạt mong muốn nhằm cải
thiện các chính sách của chính quyền, phục vụ lợi ích của sinh viên, thực hiện
tự do hóa trường học hay rộng hơn nữa là phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội.
Sang đến thập niên 1980, hai mục
tiêu kêu gọi dân chủ hóa trường học và đấu tranh phản đối chế độ
độc tài thực hiện dân chủ hóa xã hội vẫn là nội dung trọng tâm
xuyên suốt các phong trào đấu tranh của sinh viên. Như vậy, phong trào sinh
viên về cơ bản không bị bó hẹp trong phạm vi trường học mà có xu hướng xã hội
hóa, trở thành đòn bẩy cho tiến trình dân chủ hóa chính trị - xã hội của Hàn
Quốc.
3.3. Tận dụng thế mạnh địa bàn đô thị
Phong trào đấu tranh dân chủ của
sinh viên Hàn Quốc diễn ra trên địa bàn các đô thị lớn, phần đông nổ ra tại
Seoul và Busan là hai thành phố lớn nhất cả nước, tập trung nhiều trường đại
học. Địa bàn đô thị sở hữu những điều kiện thuận lợi, thúc đẩy cho phong trào
sinh viên phát triển. Trong điều kiện xã hội đô thị, các phong trào xã hội của
sinh viên nổ ra có thể dễ dàng tiếp cận và thu hút sự chú ý, ủng hộ của nhiều
người hơn. Đô thị là nơi hợp lưu giữa nhiều luồng tư tưởng mới nảy sinh, tạo
điều kiện cho những người trẻ, trong đó có giới sinh viên dễ dàng tiếp cận với
những luồng tư tưởng mới.
3.4. Hình thức đấu tranh đa dạng từ ôn hòa đến bạo động
Về hình thức đấu tranh, phong
trào sinh viên Hàn Quốc thập niên 1970 - 1980 diễn ra dưới cả hai hình thức là
bạo động và bất bạo động (ôn hòa). Đặc biệt, giai đoạn từ thập niên 1970 đến
thập niên 1980, các hình thức đấu tranh bạo động có xu hướng gia tăng, mặc dù
về cơ bản, đấu tranh ôn hòa, bất bạo động vẫn là hình thức chủ yếu.
Các hình thức đấu tranh
bất bạo động được giới sinh viên thường xuyên áp dụng có thể kể đến như: Biểu tình xếp
hàng, thắp đuốc, mít tinh, hội nghị, tuyên ngôn, rải truyền đơn, thành lập các
tổ chức hội đoàn, bãi khóa, bất hợp tác,… Thống kê những sự kiện chính yếu
trong tiến trình vận động dân chủ hóa thập niên 1980 ở Hàn Quốc đã có đến 14 vụ
tự sát của sinh viên các trường Đại học, trong đó cao điểm là năm 1986 với 4 vụ
và năm 1988 với 5 vụ[5]. Tùy thuộc vào mức độ
quyết liệt của phong trào mà các cuộc biểu tình có thể dẫn đến hình thức bạo
động hoặc xung đột vũ trang, đặc biệt qua hai phong trào ở Buma (1979)
và Gwangju (1980). Nhược điểm của
hình thức đấu tranh bạo động là tính kích động quần chúng cao, dễ vượt ra ngoài
tầm kiểm soát. Bạo động cũng thách thức quyền lực của chính quyền và thường kết
thúc bằng đàn áp quân sự. Tuy nhiên, có thể nói trong một số trường hợp cần
thiết, thì việc áp dụng các biện pháp bạo động là không thể tránh khỏi.
3.5. Tính liên kết rộng rãi
Tính liên kết giữa phong trào
sinh viên các trường đại học giúp tăng thêm hiệu quả truyền
thông xã hội cho phong trào, đồng thời thu hẹp hậu quả khi bị đàn áp. Việc mở
rộng liên kết cũng là mở rộng địa bàn,
phạm vi hoạt động cho phong trào sinh viên. Thập niên 1970, các tổ chức liên
kết sinh viên xuất hiện dưới hình thức các liên
minh như Liên minh Sinh viên Thanh niên Bảo vệ Dân chủ Toàn quốc (1972),
Tổng liên minh sinh viên Thiên chúa giáo toàn quốc kêu gọi chính nghĩa (1975)… Tuy nhiên trên thực tế, sự đàn áp
của chính quyền độc tài quân sự đã ngăn cản các phong trào đấu tranh của sinh
viên có thể quy tụ về một tổ chức lãnh đạo thống nhất.
Sang đến thập niên 1980, do bị
đàn áp gay gắt hơn, các hội đoàn liên kết sinh viên các trường chuyển sang phát
triển chủ yếu dưới dạng các liên hiệp, ủy ban và hội nghị thay vì liên minh như
trước. Theo thống kê, tính riêng từ năm 1984 đến hết năm 1989 đã có 17 tổ chức
lớn được thành lập trong phong trào sinh viên. Ưu điểm của các hội đoàn liên
kết này là dễ dàng đẩy nhanh phong trào, thu hút, tập hợp lực lượng. Tuy nhiên,
nó cũng tạo mục tiêu công kích cho chính quyền; nội bộ dễ xảy ra mâu thuẫn về
đường hướng, phương thức tổ chức.
Tính liên kết giữa phong trào
sinh viên với lực lượng xã hội khác bao hàm hai hình thức chính: (1)
Phong trào sinh viên nổ ra sau đó nhận được sự ủng hộ và cộng hưởng từ các lực
lượng xã hội dân sự, nhân dân địa phương; (2) Phong trào sinh viên liên hiệp
đấu tranh cùng các tổ chức, lực lượng xã hội dân sự.
3.6. Phản ánh đặc tính dân tộc
và đặc tính thế hệ
Biểu hiện của đặc tính dân tộc luôn tồn tại và gây nên những ảnh hưởng một cách vô
thức đối với mọi người dân Hàn Quốc trong đó bao gồm cả giới sinh viên. Học giả Hàn Quốc Han Kyung Koo
(2000) đã chỉ ra những phương thức hành vi được hình thành bao gồm: (1) Nhấn
mạnh đến “việc đặt hiệu quả trên hiệu suất”. (2) Thái độ “bây giờ hoặc không
bao giờ nữa” tức là một niềm tin mà nếu không đạt được kết quả ngay trong lúc
này thì sẽ không thể có cơ hội lần thứ hai. (3) “Trạng thái tâm lý tạm thời”
biểu hiện ở xu hướng xây dựng kế hoạch công việc ngắn hạn hơn là việc lên một
kế hoạch lâu dài và theo đuổi mục đích một cách có phương pháp, dù rằng nó
không thật sự hiệu quả. (4) Niềm tin để hoàn thành nhiệm vụ thì việc vi phạm
các quy tắc được chấp nhận.(5) “Chủ nghĩa bè phái”[6].
Với mục tiêu không đổi là dân chủ
hóa, giới sinh viên đã tiến hành đấu tranh dưới nhiều hình thức, quy mô khác
nhau, trong đó có cả các biện pháp hợp pháp và bất hợp tác. Với đặc trưng “bây
giờ hoặc không bao giờ nữa”, phong trào sinh viên thập niên 1970 - 1980 nhận
thức rõ rằng, nếu họ nhượng bộ trong khi chưa có một hình thức đảm bảo thì rất
có thể một chế độ độc tài khác sẽ lại nổi lên như tình trạng sau Cách mạng
tháng Tư (1960). Đặc trưng này cũng biểu hiện qua một số hạn chế khác trong tâm
lý chung của giới sinh viên, biểu hiện ở tính nôn nóng, sốc nổi, đấu tranh
thiếu kế hoạch, thiếu tổ chức,… Đặc
trưng tâm lý “trạng thái tâm lý tạm thời” tạo ra nhiều thách thức hơn là thuận
lợi đối với phong trào sinh viên. Ngoài một số phong trào được tổ chức bởi các
hội đoàn thống nhất, phần nhiều các cuộc đấu tranh còn diễn ra manh mún, nhỏ
lẻ, chưa được suy tính kỹ càng, từ đó
dẫn đến hiệu quả không cao. Có những cuộc đấu tranh chỉ duy trì được trong vài
giờ đồng hồ, sau đó các thành viên chủ chốt bị bắt giam và phong trào tắt hẳn.
Biểu hiện
của “đặc tính thế hệ”
Lãnh đạo phong trào sinh viên
thập niên 1970 phần lớn là những người sinh vào khoảng những năm 1950, còn được
gọi là thế hệ của thời kì công nghiệp hóa. Họ trưởng thành giai đoạn mà chính
quyền kêu gọi người dân hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của quốc gia, dân
tộc. Xét trên góc độ chủ thể, phong trào sinh viên thập niên 1970 diễn ra sôi
nổi và quyết liệt hơn so với thời kì 1960 do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, phong trào thập niên
1970 đã kế thừa được những bài học kinh nghiệm quý báu từ Cách mạng tháng Tư
(1960). Rút kinh nghiệm từ tình hình đất nước sau Cách mạng tháng Tư, giới sinh
viên thập niên 1970 nhận ra rằng, nếu như họ nhượng bộ và đặt niềm tin một cách thiếu cơ sở vào chính quyền thì mục
tiêu đấu tranh sẽ không đạt được.
Thứ hai, họ lớn lên trong bối cảnh các trào lưu tư tưởng của phương Tây đặc
biệt là từ Mỹ đã bắt đầu “trổ hoa” trong lòng xã hội Hàn Quốc. Khác với lực
lượng sinh viên đã lãnh đạo phong trào thập niên 1960, họ tỏ ra thích nghi hơn
và nhanh chóng bắt nhịp hơn với các trào lưu dân chủ, bình đẳng, tự do,… Trong
khi thế hệ trước, những người từng chứng kiến sự tàn khốc của cuộc chiến tranh,
lại non trẻ về kinh nghiệm đấu tranh phần nào tỏ ra dè dặt hơn.
Sự trưởng thành về mặt số lượng
và chất lượng của giới sinh viên chỉ thật sự đạt đến mức cao nhất với sự ra đời
của thế hệ 386. Thuật ngữ thế
hệ 386 ra đời trong khoảng thập niên 1990 dùng để chỉ những người sinh ra
vào những năm 60 (6), học đại học vào những năm 80 (8) và ở thời điểm những năm
1990 vào khoảng 30 tuổi. Họ là những người trực tiếp tham gia trải nghiệm và
nắm vai trò chủ đạo trong tiến trình dân chủ hóa. Thuật ngữ thế hệ
386 có những lúc được đồng nhất với thuật ngữ thế hệ dân chủ hóa ở Hàn Quốc[7].
So với các thế hệ đi trước, thế hệ 386 được sinh trưởng trong một
hoàn cảnh, điều kiện tốt hơn. Thế hệ 386 thường
được nhắc đến là thế hệ của tri thức, chuyên môn, chiếm phần lớn tỉ lệ của tầng
lớp trung lưu trong xã hội Hàn Quốc. Do điều kiện sống gấp gáp và cơn sốt phát
triển kinh tế, với khẩu hiệu “Tôi có thể làm được việc đó”, họ đã có một cái
nhìn chủ động hơn, tự tin hơn so với các thế hệ đi trước[8]. Tiếp nối truyền thống
đấu tranh của các thế hệ đi trước cộng thêm tính năng động, tích cực do điều
kiện sống mới tác động, thế hệ 386 đã
dẫn dắt phong trào đấu tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc đi đến thành công.
4. KẾT LUẬN
Về tổng thể, phong trào đấu tranh
dân chủ hóa của sinh viên Hàn Quốc thập niên 1970 – thập niên 1980 đã thực hiện
thành công vai trò lịch sử của nó trong
tiến trình dân chủ hóa tại quốc gia này.
Trước bối cảnh xã hội khắc nghiệt với sự cai trị của chính quyền độc tài, giới
sinh viên đã đứng lên thúc đẩy tinh thần đấu tranh của toàn xã hội, trước hết
là đòi mục tiêu dân chủ hóa trường học sau đó là đòi quyền lợi cho người lao
động, sửa đổi Hiến pháp để tiến tới một nền dân chủ thực sự.
Về mặt quy mô, tổ chức, phong
trào đấu tranh dân chủ hóa của sinh viên nổ ra liên tiếp ở các trường Đại học
trong thập niên 1970 – thập niên 1980. Phong trào đã thể hiện rõ sự đa dạng về
hình thức tổ chức, phương pháp đấu tranh (bao gồm cả đấu tranh bạo động và bất
bạo động), với quy mô, tính tổ chức ngày càng được nâng cao. Phong trào đấu
tranh dân chủ của sinh viên Hàn Quốc (thập niên 1970 - thập niên 1980) là một
nguyên nhân cần và đặc biệt quan trọng đối với sự thành công của tiến trình dân
chủ hóa. Thắng lợi của tiến trình dân chủ tại Hàn Quốc là thắng lợi chung được
thực hiện bởi sự đồng tâm hiệp lực của toàn dân tộc trong đó giới sinh viên đã
hoàn thành xuất sắc vai trò tiên phong.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1.
Gordon Marshall (2012), Từ điển xã hội
Oxford, Hà Nội: NXB ĐHQG Hà Nội
Kim Choong Soon
(2012), Kim chi và IT, Hà Nội: NXB Hội nhà văn.
2.
Nguyễn Thị Thắm (2013) “Vai trò của thế hệ 386 trong xã hội Hàn Quốc”. Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc Á số 6 (148).
3.
Võ Khánh Vinh, Chu Văn Tuấn (2013) Xung
đột xã hội và đồng thuận xã hội, Hà Nội: NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội
4.
Hoàng Văn Việt (2006), Hệ thống chính trị
Hàn Quốc hiện nay. TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh.
Tài liệu
tham khảo tiếng Hàn
5. 조현연, 강병익, 서복원 (2003), 『민주화운동관련 사건 • 단체사전 편찬을 위한 기초조사연구 (80 년대)』, 서울: 민주화운동기념사업회.
6. 이효룡, 장근직 (2013), 『학생운동의 시대』, 서울: 선읶출판부.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét