Chủ Nhật, 7 tháng 11, 2021

[Hội thảo] Tư tưởng cải cách xã hội của các nhà Thực học Joseon giai đoạn thế kỉ XVII - XVIII

Bài viết nằm trong khuôn khổ Hội thảo quốc tế Nho giáo truyền thống Việt Nam - Hàn Quốc: nét tương đồng và dị biệt tổ chức tại Viện Triết học (Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam) tháng 12/2020)



Tóm tắt

Thực học là một trào lưu tư tưởng cải cách xã hội hình thành và phát triển tại vương triều Joseon từ khoảng thế kỉ XVII. Ra đời trong bối cảnh xã hội rối ren, loạn lạc sau hai cuộc binh biến Nhâm Thìn Oa loạn (1592 – 1598) và Bính Tý Hồ loạn (1636 – 1637), về mặt tư tưởng, Thực học chủ trương xây dựng và củng cố nền chính trị Vương đạo trên căn bản tư tưởng Dân bản, Vị dân tập trung vào mục tiêu kinh tế, trị thế. Trong khi các nhà nho Tính Lý học tập trung vào vấn đề hình nhi thượng với các tranh luận về vai trò của Lý – Khí, hay mối quan hệ tứ đoan – thất tình, nhân tâm – đạo tâm thì các nhà Thực học với nền tảng phê phán tư tưởng Tính Lý học (탈성리학), hướng vào những mục tiêu mang tính hiện thế đồng thời vẫn kế thừa những tư tưởng cốt tủy của Nho gia. Bài viết dựa trên phân tích quan điểm của các nhà Thực học tiêu biểu về vấn đề cải cách xã hội từ đó rút ra những đặc trưng, ý nghĩa cơ bản của tư tưởng cải cách Thực học trong tiến trình lịch sử Hàn Quốc.

 

Từ khóa: Thực học, Nho học Hàn Quốc, lịch sử Hàn Quốc, cải cách xã hội

 


1. Tiền đề kinh tế - xã hội và tư tưởng của trào lưu Thực học

1.1. Tiền đề kinh tế - xã hội

Về tình hình đối ngoại, từ cuối thế kỉ XVI bước sang đầu thế kỉ XVII, Joseon phải đối mặt với hai cuộc chiến tranh xâm lược của người Nhật Bản và người Nữ Chân mà lịch sử Hàn Quốc gọi là Nhâm Thìn Oa loạn (1592 – 1598) và Bính Tý Hồ loạn (1636). Mặc dù kết quả vẫn giữ được vương triều, song Joseon bị buộc phải thần phục nhà Thanh, đồng thời cả kinh tế lẫn văn hóa, xã hội đều bị tàn phá một cách nặng nề.

Sau cuộc chiến tranh năm Nhâm Thìn, đất đai trên toàn quốc bị bỏ hoang, đất có thể canh tác giảm xuống 1/3 so với trước chiến tranh, dân số cũng suy giảm mạnh (Ban biên soạn giáo trình Hàn Quốc học: 126). Nhiều người dân đặc biệt là thợ thủ công lành nghề, trí thức,… bị bắt làm tù binh sang Nhật. Các công trình kiến trúc – văn hóa bao gồm cả cung điện Cảnh Phúc, chùa Phật Quốc, sử khố, các bản in, thư tịch cùng nhiều hiện vật bị thiêu rụi, một số văn vật bị cướp đoạt mang sang Nhật Bản.

Sang đầu thế kỉ XVII, thế lực nhà Hậu Kim của người Nữ Chân đã mạnh lên đổi quốc hiệu là Thanh. Năm 1636, Thanh Thái Tông (Hoàng Thái Cực) đưa 10 vạn quân sang đánh chiếm Joseon buộc triều đình Joseon phải thần phục nhà Thanh. Vua Nhân Tổ cùng triều thần đã phải bỏ kinh thành lui về Nam Hán sơn thành để chống trả song vẫn thất bại. Kết cục, Nhân Tổ phải quỳ lạy tới 9 lạy trước Hoàng Thái Cực, đồng thời kí hòa ước Tam Điền Độ chấp nhận quy phục nhà Thanh.

Về tình hình nội chính, nền chính trị bằng đảng (붕당정치) vốn manh nha từ thế kỉ XV với sự đối đầu giữa các học phái cả về xu hướng học thuật lẫn chính trị ngày càng trở nên gay gắt. Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái trong triều đình đã khiến quyền lực của nhà vua thu hẹp lại và nền chính trị bắt đầu biến chất. Theo đó, các đảng phái bắt đầu tìm mọi phương cách, thủ đoạn nhằm giành được vị trí cao trên vũ đài chính trị. Sự tranh giành quyền lực giữa phe Tây Nhân – Nam Nhân, Lão Luận – Thiếu Luận cùng hình thức tập quyền của các quyền môn thế độ đã đẩy nền chính trị đi vào hỗn loạn. Sang đến thế kỉ XVIII, vua Anh Tổ và Chính Tổ thực thi Đãng Bình sách (蕩平策) nhằm cân bằng mâu thuẫn giữa các phe phái trong triều đình và tập trung lại quyền lực về tay nhà vua. Dưới triều Chính Tổ đã bắt đầu áp dụng nhiều chính sách cải cách, song không thể dẹp hết được gốc rễ của chế độ bằng đảng. Kết cục, năm 1800, vua Chính Tổ thăng hà, quyền binh triều đình rơi vào tay các gia tộc ngoại thích có thế lực và hình thành nên nền chính trị thế đạo.

Về kinh tế, sau khi trải qua sự thiệt hại nặng nề do chiến tranh, bước sang thế kỉ XVIII, kinh tế Joseon bắt đầu có sự phục hồi. Trước tiên, đối với nông nghiệp, nhà nước tăng cường phổ biến phương pháp gieo cấy trong trồng lúa, góp phần mở rộng quy mô canh tác và tăng số vụ từ 1 vụ/năm lên 2 vụ/năm. Do tiết kiệm được sức lao động nên người nông dân có thêm khả năng để cày cấy các khoảnh đất mới, từ đó làm phát sinh nhu cầu tái phân phối lại ruộng đất. Đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp, giao thương với Trung Quốc và Nhật Bản được nối lại. Joseon trở thành trung gian giao dịch giữa hai nước láng giềng. Do nhu cầu thương mai tăng cao, tầng lớp thương nhân trung lưu, những người buôn bán tư nhân, thợ thủ công mỹ nghệ,… dần dần gia tăng về số lượng và tiềm lực. Các hoạt động buôn bán diễn ra sôi nổi.  

Về biến đổi xã hội, xã hội Joseon vốn được xây dựng trên nền tảng chế độ thân phận, đứng đầu là tầng lớp quý tộc Lưỡng ban sau đó đến trung nhân, thường dân và tiện dân. Tuy nhiên, những cuộc chiến tranh trong thế kỉ XVI – XVII đã có sự tác động mạnh vào cấu trúc xã hội này. Cụ thể, sau chiến tranh, nhiều người thuộc tầng lớp dưới hoặc thông qua đóng góp tiền bạc, lương thực cho nhà nước, hoặc thông qua việc làm giả gia phả để leo lên vị trí lưỡng ban. Trong khi đó, số lượng con cháu của các gia đình lưỡng ban suy thoái tăng lên, khiến họ không thể duy trì cách sống trước đây mà rơi vào tình trạng của nông dân hay thậm chí tá điền. Một lượng lớn nông dân bị bần cùng hóa, phải từ bỏ ruộng đất, phải đi làm mướn cho kẻ khác song vẫn phải chịu gánh nặng về mặt tô thuế (Hàn Quốc lịch sử - văn hóa: 156-157). Bên cạnh đó, sự gia tăng của tầng lớp thương nhân với tiềm lực kinh tế dồi dào đã trở thành thách thức với quan niệm cũ về trật tự xã hội sĩ – nông – công – thương.

1.2. Tiền đề tư tưởng

Phê phán sự độc tôn của Tính Lý học

Tính Lý học hay Chu Tử học bắt đầu du nhập vào bán đảo Hàn vào giai đoạn cuối của vương triều Cao Ly. Sang đến thời kì Joseon, Tính Lý học chính thức trở thành hệ tư tưởng thống trị tại quốc gia này. Đặc biệt vào thế kỉ XV, với sự xuất hiện của những nhà Nho xuất chúng như Thoái Khê Lý Hoảng, Lật Cốc Lý Nhĩ, Tính Lý học đạt đến thời kì toàn thịnh. Sự phát triển của Tính Lý học và Lễ học có thể nói là đã tạo nên tinh hoa của lịch sử tư tưởng Hàn Quốc (류승국: 247).

Sau hơn 200 năm thống trị nền học thuật Joseon, Tính Lý học bắt đầu xuất hiện những hạn chế về mặt tư tưởng. Về mặt triết lý – nhận thức, Tính Lý học Joseon càng lúc càng lún sâu vào những tranh luận hình nhi thượng về mối quan hệ giữa Lý và Khí. Về mặt đạo đức học, giới Nho sĩ dành phần lớn thời gian xung quanh những tranh cãi về nhân tâm, đạo tâm, tính người, tính vật, lễ học,… dần dần khiến cho nền học thuật rơi vào lý thuyết suông, xa rời thực tiễn. Sự xâm lược của người Nhật và người Mãn đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho giới Nho sĩ đương thời, bởi lẽ việc tranh cãi lý thuyết không giúp Joseon thoát khỏi vó ngựa của giặc ngoại xâm. Yêu cầu ngay lúc này là cần phải chấn hưng lại sức mạnh quốc gia, thực hiện phú quốc cường binh và ổn định lại đời sống của nhân dân sau chiến tranh. Tư tưởng Thực học đã ra đời trong bối cảnh phê phán Tính Lý học và hướng học thuật vào thực tiễn đời sống xã hội, phục vụ cho mục tiêu trị quốc an dân thời kì này.

 

Tiếp nhận tư tưởng Thực học Minh – Thanh và Tây học

Bước vào thế kỉ XVII, trong giới Nho học Trung Quốc bắt đầu xuất hiện khuynh hướng phê phán Tính Lý học một cách toàn diện. Các học giả như Cố Viêm Võ (1613 – 1682), Hoàng Tông Hy (1610 – 1695) đã phê bình cái học huyền hư trống rỗng, đạo đức suông của Tống Nho vốn thống trị nền học thuật Trung Quốc trong nhiều thế kỉ. Với tư tưởng chủ đạo Sùng thực truất hư (崇實黜虛), trào lưu Thực học Minh Thanh đã ra đời và mang lại ảnh hưởng xã hội rộng lớn trên hầu khắp các lĩnh vực từ nhận thức luận, chính trị, khảo chứng học, kinh tế luận,… hướng tinh thần học tập về đối tượng thực tiễn [Nguyễn Kim Sơn: 24]. Sự nở rộ của Thực học Minh Thanh có tiền đề từ sự du nhập của Tây học và sự phát triển của kinh tế thương nghiệp đồng thời nó cũng tác động trở lại thúc đẩy quá trình truyền bá Tây học và kích thích mở rộng giao thương.

Thực học đề cao vấn đề nghĩ thực, làm thực với tinh thần “thực sự cầu thị” đã tạo ra những thành tựu mang tính bách khoa từ nông nghiệp, thương nghiệp, phát minh kỹ thuật đến thiên văn, lịch pháp, y thuật, địa lý,… song đồng thời cũng không từ bỏ những nguyên lý nền tảng của Nho học. Do vậy, Thực học Minh Thanh hay sau đó là Thực học Joseon vẫn nằm trong khuôn khổ dòng chảy chung của tiến trình lịch sử Nho học.

Trong quá trình đi sứ sang Minh – Thanh, các nhà Nho Joseon đã hồ hởi tiếp nhận những thành tựu mới về mặt tư tưởng, khoa học kỹ thuật từ Thực học Trung Quốc từ đó áp dụng và xây dựng nền Thực học Joseon. Có thể nói, trong một thời gian dài, nhà Thanh đã trở thành hình mẫu cho sự phát triển nền văn vật tại Joseon.

Qua đó, có thể thấy, trào lưu tư tưởng Thực học ra đời trong bối cảnh xã hội Joseon bước vào giai đoạn phục hồi sau chiến tranh với nhu cầu tất yếu phải thực hiện về cải cách xã hội một cách toàn diện. Đáp ứng nhu cầu thực tiễn, Thực học đã mang lại những thành tựu sâu sắc trên hầu khắp các phương diện và đặt những bước chuẩn bị đầu tiên cho tiến trình cận đại hóa của Hàn Quốc trong thế kỉ XIX sau này.

 2. Tư tưởng cải cách điền chế của phái Trọng nông

Nông nghiệp là nền tảng của mỗi quốc gia truyền thống phương Đông. Đặc biệt, sau khi trải qua chiến tranh, vấn đề cải cách, phục hồi sản xuất nông nghiệp được coi là mục tiêu hàng đầu. “Dân dĩ thực vi thiên” do vậy ổn định nông nghiệp vừa mang ý nghĩa kinh tế giúp ổn định đời sống của người dân và mang ý nghĩa chính trị - xã hội giúp củng cố trât tự ổn định xã hội.

Tư tưởng cải cách nông nghiệp – điền địa của phái Trọng nông có thể kể đến những nhà nho tiêu biểu như Yun Hyung-won, Jeong Yak-yong, Lee Ik… Các nhà nho thuộc phái trọng nông có đặc điểm chung là đều có thời gian lưu đày tại các vùng quê, do vậy, họ trực tiếp nhìn nhận và thấu hiểu những nỗi khổ của người nông dân trong giai đoạn hậu kì Joseon. Xuất phát từ tư tưởng “Dĩ nông vi bản”, “Hằng sản hằng tâm”, mặc dù cách giải quyết có những khác biệt, song về cơ bản, tư tưởng cải cách của phái Trọng nông đều hướng đến mục tiêu người cày có ruộng, từ đó xây dựng một mẫu hình quốc gia lý tưởng.

Tư tưởng của Yun Hyung-won được đúc kết trong tác phẩm Bàn Khê tùy lục (磻溪隨錄) bao gồm 26 quyển, trong đó nội dung liên quan đến nông nghiệp – điền địa chiếm vị trí quan trọng. Cụ thể: Điền chế (田制, 2 cuốn) bàn về phương án cải cách liên quan đến chế độ ruộng đất hiện hành, Điền chế hậu lục (田制後錄, 2 cuốn) bàn về phương án cải cách về những vấn đề liên quan trực tiếp đến điền chế như hộ tịch, tô thuế, thủy lợi, tiền tệ, chợ búa,… Điền chế khảo thuyết (田制攷說2 cuốn) khảo sát lịch sử về điền chế các vương triều Trung Quốc và Triều Tiên, Điền chế hậu lục khảo thuyết (田制後錄攷說, 2 cuốn) bao gồm khảo sát lịch sử về các nội dung được đề cập đến trong Điền chế hậu lục.

Theo Yun Hyung-won, để cải cách điền chế, cần thực hiện Quân điền (均田論). Cụ thể, mục tiêu đầu tiên, ruộng đất sau khi được quốc hữu hóa để ngăn chặn tình trạng độc chiếm ruộng đất, thực hiện người cày có ruộng (耕者有田). Tiếp đến, xóa bỏ cách quy hoạch ruộng đất dựa trên sản lượng thu hoạch (結負法) vốn phi khoa học và dễ bị quan lại lũng đoạn trước đó để thay bằng cách phân phối dựa trên diện tích (頃畝法)[1], giúp cho việc đo đạc, phân phối ruộng đất và thu tô thuế hợp lý hơn. Thứ ba, ruộng đất sau khi được quốc hữu hóa sẽ được phân bổ theo thân phận xã hội. Các quan lại tùy theo phẩm bậc được nhận tối đa 12 khoảnh (1 khoảnh ~ 9917.4 m2) và tối thiểu là 2 khoảnh. Nông dân mỗi đinh được cấp 1 khoảnh, tương đương với khả năng canh tác trừ đi phần nộp thuế để có thể đảm bảo sinh kế. Thứ tư, ranh giới ruộng đất được chia theo phép Tỉnh điền (井田制), trình tự thứ dân từ 20 tuổi, sĩ tộc từ 15 tuổi, nữ giới theo nguyên tắc không được phân ruộng. Người nhận ruộng sau khi qua đời cần phải báo cáo lại để phân bổ lại theo trình tự. 

Jeongho Lee Ik quan sát thấy hiện thực ruộng đất bị chiếm đoạt bởi một nhóm thiểu số dẫn đến người giàu ngày càng giàu và người nghèo càng lúc càng nghèo hơn, ông đã suy nghĩ về phép Tỉnh điền của Trung Quốc song đồng thời cũng cho rằng không thể áp dụng rập khuôn vào thực tiễn lúc này. Do vậy, trong cải cách ruộng đất, ông đề xướng Hạn điền (限田論).

Thứ nhất, cần đặt ra một tiêu chuẩn ruộng đất cơ bản được gọi là ruộng vĩnh nghiệp (永業田) cho mỗi hộ gia đình. Thứ hai, diện tích đất đai ngoài phạm vi của ruộng vĩnh nghiệp được mua bán không giới hạn; ngược lại nếu mua bán ruộng vĩnh nghiệp sẽ bị khép tội cả người mua lẫn người bán bất luận giá cả[2]. Thứ ba, việc mua bán ruộng đất hết thảy đều phải báo cáo lại cho quan nha. Quan nha sau khi xem xét điền án (田案) sẽ ghi chép vào văn quyển (文券), người mua bán ruộng đất nếu không có dấu ấn văn (印文) của quan nha thì việc mua bán bị coi là không có hiệu lực trước pháp luật.

Dasan Jeong Yak-yong đánh giá quan điểm về Hạn điền và Quân điền là phân phối theo nhân khẩu, không phù hợp với phong tục (土俗), không nắm được nhân tình do vậy chỉ nằm trên lý luận mà không thực hiện được[3].  Bởi lẽ, những lý thuyết trên thiếu hiệu quả trong việc ngăn chặn sở hữu ruộng đất trên quy mô lớn đồng thời làm trái với nguyên tắc nông dân có ruộng (農者得田) (유원동: 한국민족백과사전: 1995). Do đó, Jeong Yak-yong chủ trương Tỉnh điền (井田論). Quan điểm về Tỉnh điền của Jeong Yak-yong được ghi chép lại trong Kinh thế di biểu (經世遺表) soạn năm Thuần Tổ thứ 17 (1817).

 Vào thời kì Jeong Yak-yong soạn kinh thế di biểu, ông đang trong quá trình bị lưu đày. Chứng kiến cảnh những người nông dân bị tước đoạt đất đai phải trở thành lưu dân trong khi ruộng đất của nha môn (衙門屯田) và cung phòng (宮房田) thì ngày càng bành trướng, Jeong Yak-yong đã đặt mục tiêu cải cách hướng đến ngăn chặn hành vi chiếm đoạt ruộng đất của thư lại, bảo vệ sản nghiệp ruộng đất cho người dân từ đó gia tăng sức sản xuất nông nghiệp.

Chính sách Tỉnh điền vốn xuất hiện ở Trung Quốc cổ đại trong đó đất đai được chia thành 9 khoảnh theo hình chữ Tỉnh () cho 8 hộ dân, khoảnh đất ở giữa sẽ canh tác chung và dùng nộp tô thuế cho nhà nước. Tuy nhiên, quan điểm về tỉnh điền của Jeong Yak-yong không dừng lại ở việc áp dụng rập khuôn theo quy cách tỉnh điền của Trung Quốc mà có sự nghiên cứu, tiếp thu và phát triển những tranh luận về cải cách ruộng đất của các học giả trước đó. Trên cơ sở phê phán Quân điền luận và Hạn điền luận với nội dung chia ruộng đất cho cả những người không tham gia sản xuất nông nghiệp, Tỉnh điền luận của Jeong Yak-yong mang những nội dung cốt lõi như sau:

Thứ nhất, đảm bảo nguyên tắc nhà nông có ruộng (農者得田), tức chỉ phải phân phối ruộng đất cho những người tham gia sản xuất nông nghiệp[4]. Theo đó, những người đã chuyển sang làm thủ công nghiệp và thương nghiệp và thậm chí cả sĩ tộc đều nằm ngoài danh sách đối tượng phân chia ruộng đất. Đây là điểm mới đầu tiên trong luận cải cách của Jeong Yak-yong.

Thứ hai, dựa trên tiêu chí phân phối theo năng lực sản xuất của hộ gia đình. Cụ thể, những hộ có năng lực sản xuất dồi dào, nhiều nhân công được ưu tiên phân thêm ruộng và nhận những khoảnh ruộng màu mỡ. Để thực hiện tiêu chí này, nông dân được chia làm hai đối tượng là nguyên phu (原夫) và dư phu (餘夫). Nguyên phu dựa trên nguyên tắc cấu thành bởi một gia đình 8 thành viên, sẽ được nhận 1 khoảnh trong số 8 khoảnh đất tỉnh điền. Số lượng lao động trong một gia đình (nam từ 20 đến 60 tuổi, nữ từ 20 đến 50 tuổi) phải đạt tối thiểu 5, 6 người, mỗi gia đình nhận được phần đất tương ứng với 100 mẫu[5] (1 mẫu thời Joseon tương ứng với khoảng 99,174m2). Dư phu bao gồm những gia đình có hai người tương ứng với hai vợ chồng, được nhận 25 mẫu tức ¼ của một khoảnh tỉnh điền[6]. Các hộ có số người không tương ứng ví dụ như 4 – 5 – 7 người có thể được chia theo tỉ lệ khác, ngoài ra, mức độ màu mỡ của ruộng cũng được chia theo ba mức thượng – trung – hạ.

Như vậy, có thể thấy tỉnh điền luận của Jeong Yak-yong đã có sự căn cứ trên tình hình thực tế lao động sản xuất nông nghiệp, có đề cập đến yếu tố sức lao động nữ trong các hộ gia đình, đồng thời căn cứ vào nhiều yếu tố cụ thể khác như loại trừ trường hợp gia đình có người già, bệnh không có khả năng sản xuất trong quá trình tính toán sức lao động, căn cứ trên thực tế ruộng đất để tiến hành phân phối cho nông dân.

Tư tưởng cải cách của phái trọng nông với những quan điểm về phân phối lại ruộng đất có thể nhìn nhận một cách khái quát qua những đặc điểm cơ bản như sau. (1) Dựa trên quan sát thực tiễn của các nhà Thực học trước đời sống thực tiễn của người dân; (2) Hướng đến mục tiêu ổn định nông nghiệp, người nông dân có ruộng, hạn chế tình trạng lưu dân, từ đó đặt nền tảng cho quốc gia phú cường.

Mặc dù các ý tưởng cải cách đều dựa trên tinh thần dân bản song cơ bản đều không được thực hiện do nhiều hạn chế về mặt chính trị - xã hội, trong đó có thể liệt kê ra một số nguyên nhân như sau. (1) Các tác giả khi đưa ra quan điểm cải cách đều ít nhiều bị hạn chế về quyền lực chính trị ví dụ như Yu Hyung-won đã lui về ẩn cư, Jeong Yak-yong đang bị lưu đày; (2) Đụng chạm tới quyền lợi của giai cấp địa chủ phong kiến nên khó khăn trong việc thực hiện; (3) Nền chính trị của hậu kì Joseon bắt đầu rơi vào hỗn loạn do hậu quả của nền chính trị bằng đảng, đặc biệt là sau khi Chính Tổ qua đời và nền chính trị Thế đạo nổi lên, khiến cho các cải cách không được thực hiện; (4) Bản thân các ý tưởng cải cách vẫn chứa đựng nhiều hạn chế, tiêu biểu như thuyết Tỉnh điền của Jeong Yak-yong chưa đề cập được đến vấn đề tái phân phối và mua bán ruộng đất.

 

3. Tư tưởng cải cách phú quốc an dân của phái Trọng thương

Trong khi phái Trọng nông bao gồm những nhà Thực học có xuất thân từ phe Nam nhân với thời gian dài sống ở nông thôn thì phái Trọng thương lại bao gồm những nhân vật nắm quyền lực tại kinh đô thuộc nhóm Lão luận phe Tây nhân với những tên tuổi tiêu biểu như Yu Su-won, Hong Dae-yong, Park Ji-won, Park Jega,…  Những học giả này có cơ hội đi sứ và trực tiếp trông thấy sự biến đổi của nhà Thanh khi tiếp nhận hệ thống văn vật phương Tây, do vậy họ chủ trương cải cách đất nước dựa trên phát triển thương nghiệp, tư tưởng của họ vì thế cũng gọi chung là Bắc học phái (北學派).

Đối với những học giả theo phái Trọng thương, để thực hiện được mục tiêu phú quốc an dân, trước hết cần hướng đến “Lợi dụng hậu sinh (利用厚生)” thông qua việc tăng cường tích lũy của cải, đặc biệt cần phải kích thích thương mại xuất khẩu. Park Jega là nhân vật đi đầu chủ trương thông thương với ngoại quốc. Trong phần Ngoại thiên của cuốn Bắc học nghị (北學議), ông nhận định rõ: “Nước ta là một nước nhỏ, bách tính khốn khó. Bây giờ dù cho có chăm chỉ với việc đồng áng, tuyển dụng nhân tài hiền minh, khuyến khích lưu thông thương nghiệp, trao sự ưu đãi cho công nghiệp, làm hết mọi điều lợi ích trong nước đi chăng nữa lo rằng vẫn là chưa đủ. Chắc chắn rằng khi vật tư từ các địa phương xa xôi được lưu thông thì sẽ có thể gia tăng hàng hóa và tài sản, sản xuất được hàng trăm loại đồ dùng. Sức tải của một trăm chiếc xe kéo cũng không đầy một con thuyền, việc đi ngàn dặm bằng đường bộ cũng không thể nào tiện lợi bằng đi vạn dặm bằng đường biển. Do vậy, kẻ thông thương tất phải lấy đường thủy làm quý”[7].

Park Jega đề xuất trong việc thông thương với nước ngoài, thì trước tiên là giao thương với Trung Quốc, bởi lẽ Trung Quốc thái bình đã hơn 100 năm lại cho Joseon là nước biết kính thuận. Song ông cũng xác định rõ, việc chỉ thông thương với Trung Quốc cũng chỉ là thuật sách nhất thời, đợi đến kia nước mạnh, dân nghiệp ổn định thì sẽ theo thứ tự mà mở tiếp thông thương.

Quan điểm của phái Trọng thương đã có những tác động nhất định đến quan điểm chính trị - xã hội của Joseon. Trước hết, họ đưa ra sự đánh giá cởi mở hơn trước quan niệm truyền thống về thứ tự của tứ dân hay quan niệm dĩ nông vi bản. Thương nhân vốn là tầng lớp không được coi trọng trong xã hội Nho giáo nhưng đây lại là tầng lớp đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy giao thương, sản xuất, tích lũy của cải. Các học giả Thực học theo phái Trọng thương một mặt đề cao vai trò của giới thương nhân, đồng thời cũng phê phán tầng lớp lưỡng ban không lao động chỉ giỏi ăn chơi trác táng. Lưỡng ban truyện (兩班傳) của Park Jiwon được coi là tác phẩm tiêu biểu trong việc đả phá chủ nghĩa hình thức cùng sự phi nhân tính của bộ phận lưỡng ban đương thời. Xã hội lưỡng ban thời kì này cũng chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự gia tăng của “bè lũ sâu mọt chỉ biết ăn chơi”. Đây là cái nhìn mang tính phê phán đối với chế độ thân phận vốn tồn tại nhiều bất cập trong xã hội Joseon. Thậm chí, các nhà Thực còn chủ trương đi đến phế bỏ hoan toàn chế độ thân phận, thực hiện phân chia ngành nghề theo năng lực cá nhân từ đó ổn định đời sống của quốc dân [이기백: 258].

Về mặt chính trị, cách đánh giá về Hoa Di cũng đã có sự thay đổi. Theo đó,  nhà Thanh trước đó từng bị coi là man di, rợ Hồ nay trở thành hình mẫu cho tính ưu việt về văn hóa, và trước hết Joseon muốn phát triển thì phải học hỏi văn hóa của nhà Thanh [이기백: 258]. Nhận thức mới về nhà Thanh được thể hiện rõ qua các ghi chép trong quá trình đi sứ như Nhiệt hà nhật ký (熱河日記) của Park Ji-won, Yên ký (燕記) của Hong Dae-young, Bắc học nghị (北學議) của Park Jega… Các sứ thần Joseon thời kì này đã trực tiếp ghi chép lại những điều mắt thấy tai nghe về sự phát triển của văn minh và kỹ thuật nhà Thanh trong quá trình đi sứ sang Yên Kinh.

Có thể thấy, phái Bắc học đã thể hiện rõ nét tinh thần cởi mở và sẵn sàng tiếp thu những giá trị mới trên tinh thần phê phán và xây dựng. Các nhà Thực học đã thấy rõ được vai trò quan trọng của thương nghiệp trong việc phát triển đất nước, mà trước hết muốn phát triển thương nghiệp cần phải thay đổi quan điểm cố hữu về tứ dân và đả phá tầng lớp lưỡng ban hủ bại.

 

4. Tư tưởng cải cách khoa học kỹ thuật

Thời kì hình thành và phát triển tư tưởng Thực học (thế kỉ XVI – XIX) có thể coi là thời kì phát triển rực rỡ của các thành tựu khoa học kỹ thuật trong lịch sử Joseon. Đặc biệt, trong quá trình đi sứ sang nhà Minh và nhà Thanh, các học giả Joseon đã có cơ hội tiếp cận với phương pháp khoa học cùng thành tựu trong nhiều lĩnh vực như địa lý, thiên văn, nông học,… từ đó áp dụng và phát triển thêm trong điều kiện thực tiễn Joseon. Những học giả Thực học giai đoạn này đã tiếp cận tư tưởng và các thành tựu Tây học một cách sôi nổi để đưa các phát minh, tri thức mới vào phục vụ đời sống.

Về mặt kỹ thuật, ngay từ đầu thế kỉ XVII, sau khi đi sứ sang nhà Minh trở về (1631), Jeong Doo-won đã mang theo những thư tịch của Thiên chúa giáo cùng các phát minh của phương Tây như hỏa pháo, kính viễn vọng, chuông tự minh, cùng một số loài thực vật đặc hữu như hoa diễm tiêu, hoa tử mộc[8]. Cũng trong thời kì trị vị của vua Nhân Tổ, có một số người Hà Lan gặp nạn và phải trú lại Joseon, Trong số đó Weltevree hay còn được gọi là Park Yeon đã cung cấp kĩ thuật chế tạo Hỏa pháo, đồng thời đóng góp trên nhiều phương diện cho Huấn luyện đô giám (訓鍊都監). Đến năm Hiển Tông thứ 10, các học giả của Hoằng Văn quán tiêu biểu như Lee Min-chul, Song Yi-young đã có thể tự làm ra chuông tự minh và hỗn thiên nghi dâng lên triều đình[9]. Năm Thuần Tổ thứ 18, Quan tượng giám (觀象監) dâng 4 thiên Thư vân quan chí (書雲觀志) được nhà vua trọng thưởng[10]. Đây là cuốn sách ghi chép lại những nội dung quan trắc liên quan đến theien văn, địa lý và lịch pháp với tính sáng tạo và độ chính xác cao. Đặc biệt, máy nâng Cử trọng khí (擧重器) và ròng rọc (轆轤) do Jeong Yak-yong phát minh được coi như biểu tượng của nền kỹ thuật dưới sự dẫn dắt của các học giả Thực học. Các phát minh này đã có sự đóng góp trong việc rút ngắn thời gian xây dựng Hoa Thành tại Suwon.

Về mặt địa lý học, những tấm bản đồ thế giới tiêu biểu như Cổn dư vạn quốc toàn đồ (坤輿萬國全圖) du nhập vào Trung Quốc và được người Joseon biết đến đã mang lại những tri thức khoa học mới trong việc ghi chép và chế tác bản đồ, từ đó làm ra những tấm bản đồ mang tính chính xác cao hơn. Thành tựu địa lý thời kì này có thể kể đến những tác phẩm tiêu biểu như Đông Quốc địa đồ (東國地圖) của Jeong Sang-gi, Đại Đông dư địa đồ (大東輿地圖) của Kim Jeong-ho, Ngã bang cương vực khảo (我邦疆域考) của Jeong Yak-yong, Cương giới khảo (疆界考) của Shin Gyeong-jun,…

Về mặt nông nghiệp, các học giả Thực học đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển kỹ thuật canh tác và đã để lại nhiều sách vở hướng dẫn về nông nghiệp. Trong số đó có thể kể đến Nông gia tập thành (農家) của Shin Sok giới thiệu về nông nghiệp lúa nước và đóng góp lớn phổ cập phương pháp gieo cấy. Tác phẩm Lâm viên kinh tế chí (林園經濟誌) được Seo Yu-goo biên soạn trong vòng 36 năm được coi là cuốn bách khoa sự điển về nông nghiệp thời hậu kì Joseon.

Về mặt y học và sinh vật học, Jeong Yak-yong đã dành thời gian nghiên cứu về bệnh sởi và biên soạn cuốn Ma khoa hội thông (麻科會通), Park Jega cũng tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm về bệnh đậu mùa. Lee Jema viết Đông y thọ thế bảo nguyên (東醫壽世保元) với nhiều đóng góp trong lĩnh vực tư tưởng y học. Liên quan đến sinh vật học có thể kể đến những Ngưu hải dị ngư phổ (牛海異魚譜) của Kim Ryeo hay Tư sơn ngư phổ (玆山魚譜) của Jeong Yak-jeon,..

Như vậy, có thể thấy, các nhà Thực học Joseon thời kì này đã hướng đến một nền học vấn bách khoa, trong đó những nghiên cứu cụ thể về từng lĩnh vực được đẩy mạnh. Đây cũng là những đóng góp mới của trào lưu Thực học nhằm xây dựng một xã hội mới phồn vinh.

 

5. Những đặc trưng cơ bản và ý nghĩa của tư tưởng cải cách Thực học

Có thể nói, tư tưởng Thực học cùng những đóng góp của các nhà Thực học trong giai đoạn chuyển giao hậu kì Joseon đã đặt ra những vấn đề mới trong việc canh tân đất nước, thực hiện phú quốc an dân đồng thời mở rộng cái nhìn nhận, đánh giá về Nho học. Những đặc trưng và ý nghĩa của tư tưởng cải cách xã hội do các học giả Thực học đề xuất có thể kể đến như sau:

Thứ nhất là tinh thần phê phán. Trong bối cảnh nền học thuật Nho học đang bị sa đà vào tranh luận hình nhi thượng, vào “chính đức luận” (正德論) đồng thời thiên về tư biện, không đáp ứng được nhu cầu mà thực tiễn xã hội đặt ra, tư tưởng Thực học nói chung và tư tưởng cải cách xã hội nói riêng đã xuất hiện và mở ra trào lưu mới đưa nền học vấn trở lại phục vụ đời sống xã hội. Trên cơ sở phê phán những mâu thuẫn trong xã hội và trong nền học thuật đương thời, các nhà Thực học đã xây dựng nên hệ thống lý luận trên nhiều lĩnh vực nhằm mục tiêu chấn hưng đất nước, ổn định đời sống cho người dân.

Thứ hai là tinh thần thực dụngtinh thần dân bản. Các nhà Thực học không phủ nhận quan điểm về “chính đức luận” (正德論) song họ đã hướng mối quan tâm từ đạo đức – luân lý sang đến mục tiêu “kinh thế trí dụng” (經世致用) và “lợi dụng hậu sinh” (利用厚生) (한국철학사연구회: 2005), cốt để nâng cao sức sản xuất, giải quyết nhu cầu phân chia lại ruộng đất trong nông nghiệp, khuyến khích phát triển thương nghiệp, từ đó thực hiện phú quốc an dân. Ở góc độ này, có thể nói Thực học là một nền học vấn vị dân sinh. 

Thứ ba là tinh thần thực chứngtinh thần khoa học. Nếu như trào lưu Tính Lý học truyền thống thiên về tư biện, tập trung vào các tranh luận liên quan đến nhân luân – tính – lý khí – tứ đoan thất tình,… thì Thực học đặc biệt là phái Bắc học chịu ảnh hưởng từ học phong nhà Thanh đồng thời tiếp thu các yếu tố từ Tây học để xây dựng nên một nền học vấn bác học, vượt khỏi phạm vi tư tưởng triết học, luân lý học truyền thống và tiến sâu hơn vào các ngành học vấn khác như kinh tế, nông học, y học, sinh vật học, thiên văn học… Phương pháp nghiên cứu cũng đi từ quan sát thực tiễn tự nhiên và xã hội từ đó đúc kết lại kinh nghiệm.

Thứ tư là tinh thần cởi mở, sẵn sàng tiếp thu và học hỏi. Joseon được biết đến là một vương triều chịu ảnh hưởng sâu sắc từ chủ nghĩa sự đại (사대주의) và tư tưởng Hoa Di. Do đó, việc các học giả Bắc học tiếp thu Thực học nhà Thanh đồng thời coi nhà Thanh như một hình mẫu của phát triển văn vật là một bước đi vượt thoát khỏi các thiên kiến ban đầu. Bên cạnh đó, nhiều học giả Thực học đã rất cởi mở trong việc tiếp thu và truyền bá tư tưởng Tây học vào Joseon.

Thứ năm là ý thức chủ thể. Mặc dù thời kì ra đời và phát triển Thực học, khái niệm quốc gia – dân tộc (nation) chưa được du nhập vào bán đảo Hàn, song ý thức về chủ thể quốc gia, dân tộc đã được thể hiện rõ trong tư tưởng cải cách xã hội của các nhà Thực học thời kì này. Trước hết nằm ở mục tiêu xây dựng dân giàu nước mạnh, thứ đến là đặt các chính sách cải cách trong cái nhìn thực tiễn xã hội Joseon chứ không rập khuôn theo mô hình Trung Quốc. Ý thức chủ thể cũng được thể hiện rõ qua các công trình khảo cứu về lịch sử, địa lý, sinh vật học nước nhà.

 

KẾT LUẬN

Giương cao ngọn cờ “Thực sự cầu thị” (實事求是) để truy cầu một nền học vấn mới thiết thực hơn, phục vụ cho mục tiêu trị quốc an dân, các nhà Thực học Joseon đã đề ra nhiều tư tưởng cải cách để giải quyết những vấn đề cấp bách của thời đại. Trước hết, đối với vấn đề cải cách điền địa, phái Trọng nông đã nhanh chóng nhận ra sự bất bình đẳng trong phân phối ruộng đất để từ đó đề ra các giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu nhà nông có ruộng, từ đó nâng cao sức sản xuất, củng cố nền tảng quốc gia. Đối với về đề giao thương hàng hóa, các học giả phái Trọng thương hay phái Bắc học đã nhận ra vai trò quan trọng của thương nghiệp trong việc xây dựng quốc gia cường thịnh. Họ cũng đề cao vai trò của thương nhân, thấy rõ sự bất cập trong phân tầng xã hội đương thời, đồng thời phê phán sự hủ bại của một bộ phận quý tộc lưỡng ban. Trên phương diện cải cách khoa học – kỹ thuật, bằng cái nhìn thực chứng và phương pháp làm việc khoa học, các nhà Thực học đã đúc kết và truyền bá những tri thức mới, đặc biệt về kỹ thuật, y học, sinh học, thiên văn,… Bên cạnh đó, với những khám phá mới trong khảo cứu lịch sử và địa lý, có thể nói các nhà Thực học đã đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng nền Quốc học sau này.

Mặc dù có những tư tưởng bứt phá khỏi bối cảnh thời đại, song Thực học vẫn có sự kế thừa những giá trị của Nho học truyền thống trên phương diện luân lý – đạo đức. Do vậy, nó vẫn là một bộ phận quan trọng không thể tách rời khỏi lịch sử Nho học Hàn Quốc. Các tư tưởng cải cách xã hội khởi sinh từ trào lưu Thực học đều thể hiện nỗi suy tư của nhà nho trước vận mệnh của đất nước, thấm đậm tinh thần dân bản của Nho giáo truyền thống.

Trong thời kì trị vì của Anh Tổ và đặc biệt là Chính Tổ, các học giả Thực học được trọng dụng và hiến kế làm lợi cho đất nước. Song kể từ sau khi vua Chính Tổ thăng hà, nền quốc chính lại rơi vào hỗn loạn dưới sự cầm quyền của các gia tộc ngoại thích. Nền chính trị thế đạo (세도정치) kéo dài trong suốt hơn một nửa thế kỉ cùng tư tưởng bài xích phương Tây đã kìm hãm sự phát triển của Thực học nói riêng và của xã hội Hàn Quốc nói chung. Các chính sách thiết thực không được thi hành, tình trạng tham nhũng, quyền thần lộng hành đã chặn đứng con đường hướng tới xây dựng xã hội tốt đẹp hơn của các nhà Thực học. 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Sử liệu

Viện Biên dịch Cổ điển Hàn Quốc, http://db.itkc.or.kr/

經世遺表, Kinh thế di biểu,

磻溪隨錄 Bàn Khê tùy lục

星湖先生全集 Tinh Hồ tiên sinh toàn tập

與猶堂全書 Dư Do đường toàn tập

北學議Bắc học nghị

          Triều Tiên vương triều thực lục, http://sillok.history.go.kr/

Tài liệu tham khảo tiếng Hàn

류승국 (2009), 한국유학사, 성균관대학교 동아시아학술원: 서울.

한국학중앙연구원, 한국민족문화대백과사전, https://encykorea.aks.ac.kr/

한국철학사연구회 (2005), 한국철학사상사, 심산: 서울.

이기백 (2012), 한국사신론, 일조각: 서울.

Tài liệu tham khảo tiếng Việt

Ban biên soạn giáo trình Hàn Quốc học (2005), Lịch sử Hàn Quốc, NXB ĐHQG Seoul: Seoul.

Cơ quan thông tin hải ngoại Hàn Quốc (1995), Hàn Quốc Lịch sử và Văn hóa, NXB Chính trị Quốc gia: Hà Nội.

Nguyễn Kim Sơn (2018), Nho học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX (Mấy khuynh hướng và vấn đề), NXB ĐHQG Hà Nội: Hà Nội.



[1] 『磻溪隨錄』 卷之一, 分田定租節目

[2] 『星湖先生全集』 卷之四十五, 論括田

[3] 『經世遺表』 第6卷 地官修制, 田制4

[4] 『與猶堂全書』第1集 第11卷 文集, , 田論3

[5] 『經世遺表』 第6卷 地官修制, 田制4

[6] 『經世遺表』 第5卷 地官修制, 田制1

[7] 『北學議』 外篇, 通江南浙江商舶議

[8] 朝鮮王朝實錄, 仁祖實錄, 인조 9 7 12

[9] 朝鮮王朝實錄, 顯宗實錄, 10 10 14

[10] 朝鮮王朝實錄, 純祖實錄, 순조 18 12 3

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

[Đàn bồ câu phường Seongbuk - Kim Gwang-seop]

  Ở phường Seongbuk phía sau Thành Quân Quán có một mảnh vườn nhỏ mang tên "Công viên bồ câu" - gợi nhớ về nơi từng là nhà của lũ ...