Thứ Bảy, 30 tháng 10, 2021

Đỉnh Hàn Khê (Yang Hee-eun)

Hỡi non kia xin đừng khóc thân này

Ướt dưới chân vạn trùng san suối chảy

Hỡi non kia người quên đi đừng nhớ

Nơi trái tim sóng gió đã yên bờ.


Ta muốn sống như một cơn gió thoảng

Gió thổi làm mây nước mắt lang thang

Hỡi non kia xin cho ta xuống lại

Kiệt sức rồi vẫn trĩu nặng hai vai.


Bản dịch được phóng tác từ lời bài hát đỉnh Hàn Khê của nữ danh ca Yang Hee-eun
Link video: https://www.youtube.com/watch?v=5PYX5msLRV4&t=36s

(Chú thích: 한계 - Hàn khê = Dòng suối lạnh. Đỉnh Hangye thuộc mạch núi Taebaek nằm trong vườn quốc gia Seoraksan)

Nguyên văn: 한계령

산은 내게 우지 마라 우지 마라 하고

아래 젖은 계곡 첩첩산중

산은 내게 잊으라 잊어버리라 하고

가슴을 쓸어버리네

! 그러나 줄기 바람처럼 살다 가고파

눈물 구름 몰고

다니는 떠도는 바람처럼

산은 내게 내려가라 내려가라 하네

지친 어깨를 떠미네




Mộc liên trắng (Yang Hee-eun)

Mộc liên là một trong những loài hoa tiêu biểu tại Hàn Quốc mỗi dịp xuân về. Đặc trưng của mộc liên trắng là vẻ đẹp tinh khôi có mùi gì không không biết. Loài hoa khi nở luôn hướng về phương Bắc nên còn được gọi là hoa Hướng Bắc. Đặc biệt trong ngôn ngữ tượng trưng, mộc liên trắng thể hiện tình yêu không thành. Thế nên có bài Mộc liên trắng (하얀 목력) được viết lời bởi ca sĩ Yang Hee-eun "Nay mộc liên lại nở, như xuân ấy người đi". Bài bên dưới được dịch vụng từ ca từ của bài hát này.

"Mỗi mùa mộc liên nở
Lòng ta lại nhớ về
Mưa xuân trên phố nhỏ
Man mác bóng hình ai
Ngày nao tuyết trắng rơi
Ký ức kia ấm lại
Đợi biết đến khi nào
Nối lại chuyện tình ai
Từng góc phố bâng khuâng
Muôn tình nhân đa cảm
Lẻ bước mình tôi đây
Sao đành quên tình ấy
Nay mộc liên lại nở
Như xuân ấy người đi
Khi tim đau góc nhỏ
Mộc liên xác úa tàn."

Nguyên văn: 하얀 목련

하얀 목련이 때면 다시 생각나는 사람

봄비 내린 거리마다 슬픈 그대 뒷모습

하얀 눈이 내리던 어느 우리 따스한 기억들

언제까지 사랑이여라 사랑이여라

거리엔 다정한 연인들 혼자서 걷는 외로운

아름다운 사랑얘기를 잊을 있을까

그대 떠난 봄처럼 다시 목련은 피어나고

아픈 가슴 빈자리엔 하얀 목련이 진다.





Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Gửi hoa thủy tiên/ Vì cô đơn nên mới là người (Jeong Ho-seung)

Đừng khóc em ơi,

Vì cô đơn nên mới là người

Cuộc sống này là chịu đựng những nỗi cô đơn

Đừng chờ em ơi, vì cuộc gọi chẳng bao giờ tới

Ngày tuyết rơi, bước đi trên con đường tuyết trắng,

Ngày mưa đến, bước đi trên con đường mưa rơi

Trong rừng lau, con chim yếm đen dõi nhìn em đó

Có đôi lúc, ông trời vì cô đơn nhỏ lệ

Chim đậu trên cành cũng bởi nỗi cô đơn

Em ngồi bên bờ cũng bởi nỗi cô đơn

Bóng núi cô đơn ngày qua ngày rợp xuống ngôi làng nhỏ

Tiếng chuông cô đơn lại lặng lẽ ngân vang.


Trần Tùng Ngọc dịch


Bài thơ Gửi hoa thủy tiên của nhà thơ Jeong Ho-seung đã được chuyển thể thành bài hát với tên Vì cô đơn nên mới là người. Bài hát được thể hiện qua giọng ca của ca sĩ Yang Hee-eun. Link bài hát: https://www.youtube.com/watch?v=oy8jWBvfFV0  

Nguyên tác: 수선화에게

울지 마라

외로우니까 사람이다

살아간다는 것은 외로움을 견디는 일이다

공연히 오지 않는 전화를 기다리지 마라

눈이 오면 눈길을 걸어가고

비가 오면 빗길을 걸어가라

갈대숲에서 가슴 검은 도요새도 너를 보고 있다

가끔은 하느님도 외로워서 눈물을 흘리신다

새들이 나뭇가지에 앉아 있는 것도 외로움 때문이고

네가 물가에 앉아 있는 것도 외로움 때문이다

산그림자도 외로워서 하루에 한 번씩 마을로 내려온다

종소리도 외로워서 울려 퍼진다.




 

Niết bàn của ong mật (Kim Seon-woo)

Bay qua đường hầm dài uốn lượn

Rớt xuống rồi bên cửa sổ phòng tôi

Dưới chậu sanh một chú ong mật nhỏ

Hư không ôm trọn vào, đôi cánh rách

Ngoài bầu trời khuất động, một sát na


(Con à, hoa lựu nở rồi... Mẹ hiền phơi áo)


Thời gian dài một điếu thuốc trên tay

Hư không nắm rồi buông cả trăm lần

Buồn phiền thay! Ánh suy tư chợt nảy

Giờ đành phải kết thúc tất cả thôi

Dưới gốc sanh, đào mộ ngón tay này

Khẽ đặt xuống hình hài ong mật nhỏ

Bỗng tụ lại, mây trắng ngàn lần bay.


(Con à, hoa lựu đã tàn... Mẹ từng quét sân)


Không biết chừng phải đâu là phiền muộn,

Người, đời này trong một lần duy nhất

Đến phòng tôi dưới bóng tỏa gốc sanh

Vỡ tan trong bầu không nắng đầy

Ta gặp lại tiền kiếp phấn hoa bay

Hơi thở vội như mây mưa ngày ấy

Nhẹ buông xuống nhúm đất nhỏ trên tay.


(Như lợi của con ngày còn trong bụng mẹ. Con à, hãy nhìn kìa những hạt lựu kia)

Trần Tùng Ngọc dịch

Nguyên tác: 꿀벌의 열반

어느 굽이 긴 터널을 통과해왔는지
꿀벌 한 마리,
내 방 쪽창 벤자민 화분에 떨어졌네
찢어진 날개 허공을 움켜쥐어
대기권 밖이 찰나, 수런거리는데

(얘야 석류꽃 피는구나…… 빨래 널던 어머니)

기일게 담배 한 개비 태워 무는 동안
허공이 몇백번 움켜졌다 놓여나고
나 생각하네
괴롭구나 이제 그만 끝내줘야겠구나
벤자민 나무 아래 무명지로 무덤을 파고
꿀벌을 옮겨 넣었네 조용히
흰구름 몇천번 스쳐지나고 뭉치는데

(얘야 석류꽃 지는구나…… 뜰을 쓸던 어머니)

아니었나 괴로운 게 아닌지도 몰라
생애 단 한번 저이는
단 한번 내 방 쪽창 벤자민 나무 아래에서
햇살이라든가 공기라든가 공기 속에 흩어진
몇 생애 전 꽃가루를 만나는가
가쁜 호흡, 운우지정을 나누고 있는 것도 같아
쥐었던 흙 한줌 슬그머니 내려놓는다

(배냇적 네 잇몸 같은, 얘야 이 석류알 좀 보려무나)



Đêm đếm những vì sao (Yun Dong-ju)

Mùa ghé qua bầu trời
Mang thu về ngập lối

Lòng tôi không nghĩ ngợi
Đếm những vì sao thu

Một, hai, từng vì sao in hằn trong tâm trí
Giờ sao chẳng thể nào đếm nổi
Vì bình minh sắp đến
Vì vẫn còn đêm mai
Vì tuổi trẻ còn đang dang dở

Một vì sao kí ức
Một vì sao tình yêu
Một vì sao khát khao
Một vì sao cô quạnh
Một vì sao thi ca
Và một vì sao mẹ, mẹ ơi

Mẹ, tôi cất tiếng gọi thật đẹp hướng về phía vì sao. Gọi tên những đứa trẻ cùng bàn tiểu học, gọi tên Pae, Kyung, Ok mấy đứa con gái lớn lên nơi đất khách, gọi tên mấy đứa bạn mới đó đã thành mẹ trẻ con, tên những người nghèo khổ xung quanh, chim bồ câu, con chó, con thỏ, con la, con hoẵng, Francis Jammes, Rainer Maria Rilke tên của các nhà thơ.

Tất cả sao mà xa xôi quá
Xa tít tắt như những vì sao

Mẹ,
Người ở Buk Gando xa xôi cách trở

Tôi đang nghĩ đến điều gì
Trên ngọn đồi lấp lánh ngàn sao
Tôi viết tên mình
Vùi chôn xuống đất

Tiếng côn trùng rả rích suốt đêm thâu
Vì buồn thay cái tên đầy tủi hổ

Rồi đông sẽ qua, xuân lại về bên vì sao tôi
Như cỏ xanh mọc trên nấm mồ
Trên ngọn đồi vùi chôn tên tuổi
Cỏ lại phủ lên, um tùm kiêu hãnh


Giới thiệu: Bài thơ được nhà thơ Yun Dong-ju sáng tác năm 1941 trước khi xuất dương du học. Theo chính sách của Đế quốc Nhật lúc bấy giờ, tất cả học sinh người Triều Tiên nếu muốn sang Nhật học hay cả những người dân bình thường muốn đi xin việc làm đều phải đổi họ tên sang tiếng Nhật. Điều này đã trở thành một nỗi tủi hổ và nỗi ám ảnh sâu sắc trong tâm trí của nhà thơ thôi thúc ông viết nên nhiều tác phẩm trước ngày ra đi, trong đó có thể kể đến Đêm đếm những vì sao và Lời sám hối. Các tác phẩm của ông lúc sinh thời không thể được xuất bản do đế quốc Nhật cấm dùng tiếng Triều Tiên. Yun Dong-ju mất trong nhà tù của đế quốc chỉ một thời gian ngắn  trước ngày đất nước giải phóng. Những trước tác của ông sau này được in lại trong tập thơ "Bầu trời và cơn gió và sao và thơ".

Nguyên văn: 별 헤는 밤

계절이 지나가는 하늘에는
가을로 가득 차 있습니다.

나는 아무 걱정도 없이
가을 속의 별들을 다 헬 듯합니다.

가슴 속에 하나 둘 새겨지는 별을
이제 다 못 헤는 것은
쉬이 아침이 오는 까닭이요,
내일 밤이 남은 까닭이요,
아직 나의 청춘이 다하지 않은 까닭입니다.

별 하나에 추억과
별 하나에 사랑과
별 하나에 쓸쓸함과
별 하나에 동경과
별 하나에 시와
별 하나에 어머니, 어머니,

어머님, 나는 별 하나에 아름다운 말 한마디씩 불러 봅니다. 소학교 때 책상을 같이 했던 아이들의 이름과, 패, 경, 옥, 이런 이국 소녀들의 이름과, 벌써 아기 어머니 된 계집애들의 이름과, 가난한 이웃 사람들의 이름과, 비둘기, 강아지, 토끼, 노새, 노루, '프랑시스 잠', '라이너 마리아 릴케' 이런 시인의 이름을 불러 봅니다.

이네들은 너무나 멀리 있습니다.
별이 아스라이 멀듯이.

어머님,
그리고 당신은 멀리 북간도에 계십니다.

나는 무엇인지 그리워
이 많은 별빛이 내린 언덕 위에
내 이름자를 써 보고
흙으로 덮어 버리었습니다.

딴은 밤을 새워 우는 벌레는
부끄러운 이름을 슬퍼하는 까닭입니다.

그러나 겨울이 지나고 나의 별에도 봄이 오면
무덤 위에 파란 잔디가 피어나듯이
내 이름자 묻힌 언덕 위에도
자랑처럼 풀이 무성할 거외다.

(1941. 11. 5.)



Một số thông tin thú vị về kỳ thi Đại học ở Hàn Quốc

        Chắc chắn các bạn học về Hàn Quốc đều đã nghe nói đến mức độ căng thẳng và tầm quan trọng của kỳ thi đầu vào Đại học ở Hàn Quốc. Theo thống kê của Bộ Tư Pháp đưa ra thì có đến 71% học sinh cấp 3 tại Hàn Quốc tiếp tục theo học Đại học thuộc top cao nhất trong các nước khối OECD. Tỉ lệ này tại Việt Nam năm học 2016 - 2017 theo thống kê của Bộ Giáo dục Việt Nam là 41%.

        Do mức độ cạnh tranh mạnh cùng quan niệm cho rằng cánh cửa đại học cũng chính là cánh cửa dẫn đến thành công, kỳ thi Đại học ở Hàn Quốc đã trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Các bà mẹ Hàn Quốc có con thi đại học thường dành thời gian 100 ngày trước đó để tới các chùa, nhà thờ cầu nguyện cho con cái thi cử được suôn sẻ. Các hậu bối lớp 10, 11 có mặt từ sáng sớm với một loạt các biểu ngữ để cổ vũ tinh thần cho các tiền bối làm bài thi. Thậm chí trong những năm gần đây, đã có hình ảnh các hậu bối quỳ gối cầu nguyện trước cổng trường cho các anh chị của mình.

        Vào những ngày này, người ta TẶNG QUÀ nhau cái gì để chúc thi tốt?
        1. Theo truyền thống thì người Hàn sẽ tặng kẹo mạch nha và bánh gạo cho thí sinh với hàm ý sẽ bám chặt lấy đáp án và không dễ bị trượt ^^! (Cả hai món này đều có đặc trưng là dính vô cùng =.=!)
        2. Tặng Dĩa để "xiên" trúng đáp án
        3. Tặng Giấy vệ sinh để làm bài dễ như lăn cuộn giấy
        4. Tặng Gương để soi hết ra các đáp án đúng.
        Đến đây xem ra trào lưu share ảnh thần Xoài của các bạn sinh viên VNU chắc cũng phải có một cơ sở vi diệu nào đấy =))

        Các cơ quan công sở sẽ lùi giờ làm việc để tránh gây tắc đường cho học sinh đi thi. Các công trường xây dựng xung quanh phải tạm ngừng để đảm bảo yên tĩnh cho thí sinh. Xe cảnh sát được huy động để giúp đỡ các thí sinh không tìm được đường đến điểm thi.

        Các nhà hàng, cửa hàng cửa hiệu, trung tâm thương mại ... cũng sẽ tung ra một ti tỉ tì ti các loại hình dịch vụ, giảm giá các thể loại để cổ vũ, động viên tinh thần các em.

        Người người thi đại học!
        Nhà nhà thi đại học!



        Nguồn số liệu: 대한민국 법무부, 한국사회이해과정

Vài nét về ngày Tết âm lịch 설날 của Hàn Quốc

        Ngày Tết trong tiếng Hàn là 설날 (Seollal) trong đó 날 (Nal) có nghĩa là Ngày. Vậy phần còn lain của nó 설 (Seol) có nghĩa là gì? Đến hiện tại vẫn còn nhiều cách lý giải khác nhau, trong đó có thể kể đến một số quan điểm dưới đây.

        1) 설 xuất phát từ 낯설다 (lạ lẫm, mới mẻ) mang hàm nghĩa năm mới mang lại những điều mới mẻ, lạ lẫm.
        2) 설 xuất phát từ 선(先)날 trong đó tiền tố 선 nghĩa là "tiên" trong trước tiên, đầu tiên. Như vậy nó có nghĩa là ngày đầu tiên của năm mới.
        3) 설 xuất phát từ một từ cổ trong tiếng Hàn mang nghĩa là cẩn trọng, thận trọng. Ngày đầu năm mới, những hành động có thể ảnh hưởng đến cả năm, vì vậy nhất cử nhất động trong ngày này đều phải hết sức chú ý và cẩn thận.

        Món ăn truyền thống trong ngày Tết của người Hàn không thể không kể đến 떡국 (Tteokguk - Canh bánh gạo). Tuy nhiên loại bánh gạo này không giống với loại dùng để làm món Tteokbokki (bánh gạo xào cay). Nó được gọi là 가래떡 Garae Tteok, một thanh bánh gạo dài dài dài. Và với cái sự dài đặc sắc như thế nên người ta tin là nó tượng trương cho sự trường thọ (장수), ăn canh bánh gạo vào năm mới cũng là lời chúc sức khỏe và bình an cho cả một năm.

        Tuy nhiên, không chỉ có thế, thanh 가래떡 còn gợi đến hình ảnh của xâu tiền xu (엽전) loại mà người ta xâu vào thành từng cọc từng cọc, ngày xưa Việt Nam mình các cụ cũng xài. Và như thế nó lại "lẩy" ra một ý nghĩa biểu trưng nữa là tài lộc, mong ước cho cả năm sung túc.

    Cũng giống như người Việt Nam, người Hàn Quốc cũng sẽ chuẩn bị cho mình và nhất là trẻ em nhiều quần áo, giày dép mới để diện trong mấy ngày Tết. Phong tục này được gọi là 설빔 (Seolbim). Hanbok mặc Tết của trẻ con phần ống tay (저고리 hoặc 두루마기) thường có nhiều dải màu rất bắt mắt được gọi là 색동 (Saekdong).




Nguồn:
1. Đại từ điển Quốc ngữ tiêu chuẩn (표준국어대사전)
2. Từ điển bách khoa Folklore Hàn Quốc (한국민속백과사전)

Đậu phụ Hàn Quốc - Vài nét về lai lịch, vai trò và ý nghĩa

        Có một sự thật không thể phủ nhận rằng người Hàn Quốc rất thích ăn đậu phụ. Ngày nay nhắc đến món Hàn thì không thể không nhắc đến nhiều món ăn nổi tiếng có thành phần từ đậu phụ như đậu phụ non sundubu, canh tương đậu dwaenjangjjigae... Nhưng ít người biết rằng, đậu phụ từng có một xuất thân quyền quý và vương giả mà chỉ có vương thất, giới quý tộc và tăng lữ mới có cơ hội dùng đến.

        Khi nhắc đến năm cái đức của người quân tử người ta thường nghĩ ngay đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Đậu phụ cũng là một món ăn sở hữu được năm cái đức tương ứng như vậy (ngũ đức chi thực).

        1. Cái đức đầu tiên là hương vị mềm mại.
        2. Cái đức thứ hai là hương thơm thoang thoảng.
        3. Cái đức thứ ba là vẻ đẹp của màu sắc và sự bóng mượt.
        4. Cái đức thứ tư là hình dáng gọn gàng.
        5. Cái đức thứ năm là sự đơn giản, tiện lợi khi thưởng thức.

        Đậu phụ còn được mệnh danh là "thịt không xương". Tương truyền, đậu phụ là phát minh của Hoài Nam Vương Lưu An sống dưới thời nhà Hán vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Món ăn này được suy đoán là du nhập vào bán đảo Hàn vào giai đoạn cuối thời Tam quốc - đầu thời kỳ Tân La thống nhất, khoảng thế kỷ VII - VIII, giai đoạn mà có sự tiếp xúc mạnh mẽ về Phật giáo giữa bán đảo Hàn và Trung Quốc. Rất có thể nó đã đến bán đảo Hàn nhờ vào vai trò của các nhà sư Trung Quốc.

        Trong một thư tịch cổ ra đời năm 982 đời Cao Ly Thành Tông có câu rằng: "Có ba thứ cưu mang cho kẻ lữ khách đi đường bằng lòng từ bi đó là tấm lòng của nhà vua, rượu và canh đậu phụ".

        Thời kỳ đầu du nhập, đậu phụ là một món ăn trân quý chỉ lưu hành trong các nhà chùa và chuyên dùng cho việc cúng dàng chư Phật. Trong thời kỳ Cao Ly, đậu phụ chủ yếu được làm ra trong các ngôi chùa và kỹ thuật sản xuất đậu phụ cũng là bí quyết của giới tăng lữ. Vương thất còn lựa chọn riêng ngôi chùa đảm trách việc sản xuất đậu cho các nghi lễ quốc gia. Ngôi chùa ấy được gọi là Joposa hay Tạo Bào tự - nơi chuyên trách việc sản xuất và cống nạp đậu phụ cho vương tộc.

        Sang đến thời kỳ Joseon, các ngôi chùa nằm gần lăng mộ của nhà vua thường được chỉ định làm Tạo Bào tự để thuận tiện cho việc cung tiến đậu phụ tế tự. Triều Tiên còn cống nạp các cô gái chuyên sản xuất đậu phụ sang nhà Minh. Theo Triều Tiên vương triều thực lục, thời Triều Tiên Thế Tông, hoàng đế nhà Minh đã có lời khen ngợi về các cung nữ của Triều Tiên trong việc nấu ăn nhanh nhẹn và lanh lợi. Đặc biệt việc nấu món đậu phụ là vô cùng tinh diệu.

        Thông qua nhà chùa việc sản xuất đậu phụ bắt đầu lan truyền tới dân gian. Tuy nhiên do quá trình sản xuất khó khăn, cho nên về cơ bản đây vẫn là một món ăn quý tộc, chỉ lưu truyền trong giới sĩ đại phu và chuyên được dùng để biếu tặng nhau.

        Sang đến thời Hậu Kỳ Joseon, mặc dù Phật giáo bị cấm cản và hết sức coi thường song giới sĩ đại phu vẫn thường lui tới các ngôi chùa để thưởng thức món đậu phụ với hương vị ngon nhất. Cuộc gặp gỡ giữa giới quý tộc ở Tạo Bào tự để thưởng thức những món ăn ngon nhất từ đậu phụ còn được gọi là Yeonpohoi hay Nhuyễn Bào Hội. Việc giới quý tộc thường xuyên lui tới các chùa chiền và bắt sư sãi phục dịch cho họ ăn chơi nhảy múa đã gây một sự phiền phức không hề nhỏ đối với sự tu hành của các tăng sĩ.

        Trong thời kỳ thuộc Nhật và Chiến tranh Triều Tiên khi mà nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn thì việc sản xuất đậu phụ đã trở thành một sinh kế cho giới bình dân Hàn Quốc. Từ khoảng những năm 1970 khi mà nền công nghiệp phát triển hơn thì đậu phụ bắt đầu trở thành một món ăn phổ biến và bình dân. Cho đến nay, nó đã trở thành một món ăn quan trọng không thể thiếu và là một phần của tinh hoa ẩm thực Hàn Quốc.



        Nguồn: Kênh truyền hình lịch sử EBS

Thứ Tư, 27 tháng 10, 2021

Con Mực mẹ mất con (Tác giả: Lee Ik-sang – Người dịch: Tùng Ngọc Mahi)

        Một tháng trước, con Mực trong nhà Young-gil mới đẻ con. Thế nhưng chỉ có hai con cún là đen giống mẹ còn một con cún thì có lông màu khoang.

        Young-gil vui lắm, ngày nào cậu cũng ôm ấp lũ chó con rồi vuốt ve bộ lông mềm mượt của chúng.
        Cũng có những lúc, suýt nữa thì cậu chàng bị con Mực mẹ cắn. Con Mực mẹ lo rằng không biết Young-gil có cướp con của nó mang đi không nên cứ nhe răng ra rồi làm mặt gầm gừ.
        Lũ cún con được Mực mẹ yêu thương như thế nhưng chỉ mới sinh được chừng một tháng, đã bị đem nơi khác mà con mẹ không hề hay biết. Một con được mang đến nhà ông cậu của Young-gil còn một con thì được nuôi ở nhà hàng xóm của Young-gil. Chỉ còn lại mỗi con cún khoang.
        Young-gil tiếc nuối khôn tả. Một ngày, cậu hỏi mẹ:
        “Mẹ ơi, sao mình không nuôi hết lũ cún ở nhà ạ?”
        Mẹ vừa cười vừa trả lời:
        “Con định nuôi hết cả ba con để mà làm gì?”
        Câu trả lời ấy càng khiến cho Young-gil buồn hơn. Cậu nói: “Nhưng mà nhà chị Young-ae cũng có tận 5 con cơ mà mẹ”. Cậu nghĩ lại lúc đi đến nhà chị Young-ae bị cả lũ chó lao ra gầm gừ, sủa lấy sủa đẻ.
        Nghe Young-gil nói, mẹ thở dài rồi đáp:
      “Nhà Young-ae là nhà giàu nên có thể nuôi được nhiều chó, thế nhưng nhà mình thì làm gì được như thế hả con?”
        Young-gil buồn lắm, cậu đề nghị với mẹ: “Mẹ ơi, hay là mẹ cho con ăn ít cơm đi một chút rồi mình để nuôi cún nhé”.
        Thế nhưng, mẹ lại trả lời vòng vo rồi cứ thế mà chẳng nói thêm lời nào nữa cả.
       Chỉ nghĩ đến cảnh lũ cún con xa mẹ sẽ buồn biết bao nhiêu cũng khiến Young-gil ăn không ngon ngủ không yên. Cậu lại nghĩ đến cái ngày con Mực mẹ bây giờ được mang về nhà chừng một năm về trước. Lúc ấy, con Mực mẹ bây giờ cũng mới chỉ như lũ mực con. Suốt bốn năm hôm sau được đem về nhà, nó chẳng ngủ được, chỉ rên rỉ rồi đi tìm mẹ. Nghĩ đến việc ấy, trước mắt Young-gil dường như trông thấy cảnh hai con Mực con đang rên rỉ ở đâu đấy, trong lòng cậu như có lửa đốt.
        Thế là, Young-gil lại đi hỏi mẹ thêm một lần nữa:
        “Lũ Mực con giờ chắc cũng đang nằm rên rỉ ở một chỗ khác giống như con Mực mẹ năm ngoái mẹ nhỉ?”
        Mẹ chỉ coi như là chuyện thường rồi trả lời: “Con nghĩ mấy chuyện như vậy làm gì?”
Young-gil thoáng nghĩ giá như nhà mình cũng giàu như nhà Young-ae thì đã có thể giữ được lũ mực con rồi…
        Thế nhưng, chỉ mấy ngày sau, đến con cún khoang cuối cùng cũng bị đem cho nhà khác mất.
        Mỗi lần nhìn con Mực mẹ giờ mất hết đám con, trong lòng Young-gil lại thấy trống rỗng.
        (Tạp chí Thiếu nhi, số ra tháng 3 năm 1925)



Tang lễ của Quốc vương Joseon được tổ chức như thế nào?

        Việc chế tác quan tài dành cho quốc vương được bắt đầu ngay trong năm mà nhà vua đăng cơ.

        (1) Trước khi qua đời, nhà vua sẽ để lại triệu tập thế tử, tông thân và các quần thần, chỉ định rõ người kế vị mình và di ngôn về công việc tiếp theo của đất nước. Di ngôn đó được gọi là “Cố mệnh”.
        (2) Khi nhà vua vừa tắt thở, nghi thức “Sơ chung” sẽ diễn ra, tại đó người ta sử dụng bông đặt vào giữa mũi và miệng của nhà vua để xác định ngài đã thực sự thăng hà hay chưa.
        (3) Tiếp theo đó, nội quan sẽ thực hiện nghi thức “Phục” để gọi linh hồn của nhà vua. Họ mang những vật phẩm của nhà vua lên trên mái cung điện. Người nội quan cầm long bào vẫy 3 lần và sau đó thả xuống.
        (4) Thế tử, các tông thần và quần thần thực hiện nghi thức “Dịch phục bất thực” bao gồm việc giũ tóc, mặc áo tang và nhịn ăn. Từ thế tử, các đại quân cho đến các vương tử sẽ nhịn ăn trong vòng 3 ngày.
        (5) Các đại thần bắt đầu công việc Giới lệnh quy định các công việc cần thiết của quan lại và bách tính trong thời gian quốc tang bao gồm thảo luận và các bước tiến hành xây dựng lăng tẩm cho đại hành đại vương.
        (6) Nghi thức Mộc dục được tiến hành trong đêm nhà vua qua đời để làm thanh tịnh cho ngọc thể. Người thực hiện nghi thức sẽ gội đầu bằng các loại hương liệu, cắt móng tay và móng chân sau đó bỏ vào túi cho nhà vua. Sau nghi thức Mộc dục, di hài nhà vua sẽ được mặc long cổn như lúc bình sinh với 9 lớp áo, đắp chăn trắng.
        (7) Nghi thức Hàm: người ta sẽ đặt vào miệng nhà vua gạo và trân châu.
       (8) Nghi thức Tuyết băng: Để ngăn di hài của nhà vua nhanh chóng phân hủy, người ta trải đá lạnh phía bên dưới của long sàng.
        (9) Nghi thức Lập minh tin: Dựng lá cờ đại diện cho nhà vua
        (10) Nghi thức Tiểu liệm: Sau khi nhà vua thăng hà 3 ngày, di hài của ngài được mặc tất cả 19 lớp xiêm áo và sau đó tiếp tục bọc trong chăn.
        (11) Nghi thức Thần bạch: Hồn bạch của nhà vua được đặt lên giao y. Hồn bạch chính là chiếc áo được thả trong ngày nhà vua thăng hà và là vật tượng trưng cho linh hồn ngài.
        (12) Nghi thức Cáo xã miếu: Tế cáo sự qua đời của nhà vua tại Tông miếu và Xã tắc
       (13) Nghi thức Đại liệm: Di hài tiếp tục được bọc trong 90 lớp áo nữa và sau đó buộc chặt lại. Trong đại quan chứa thi thể nhà vua, người ta lót lụa màu đỏ và màu lục, đổ một lớp gạo rang cháy, một tấm vải vẽ hình chòm Thất tinh Bắc Đẩu, di hài của nhà vua được đặt vào chính giữa sau đó tiếp tục phủ chăn lên. Đại quan chính thức được đóng và chốt lại. Đại quan tiếp tục được đặt vào trong Toàn cung (một chiếc quách lớn hơn) có mái làm từ trúc.
       (14) Nghi thức Thành tấn: Toàn cung tiếp tục được đưa vào Tấn điện là nơi thờ phụng di hài nhà vua cho đến khi được lăng tẩm được hoàn thành.
       (15) Nghi thức Thành phục: Đến ngày thứ 6 sau khi nhà vua thăng hà, thế tử, thế tử tần, vương đại phi, vương phi, vương tử, tông thân và các đại thần bắt đầu mặc tang phục.
       (16) Nghi thức Tự vị: Vương thế tử cởi bỏ tang phục, mặc lễ phục, nhận ngọc tỉ và tiến hành lễ đăng cơ trước toàn cung của đại hành đại vương.
       (17) Nghi thức Ban giáo thư: Công bố nhà vua mới nối ngôi. Do vẫn đang trong tang lễ không cử hành lễ nhạc và các nghi thức diễn ra một cách đơn giản. Quốc vương dựa trên sự nghiệp mà tiên vương để lại để định Miếu hiệu, Thụy hiệu, Lăng hiệu và Điện hiệu cho tiên vương.
      (18) Nghi thức gia Thượng tự: Quan tài của tiên vương được đánh chữ Thượng phía trên để phân biệt vị trí trên dưới, để tránh bị thay đổi vị trí. Người ta tiếp tục chế tác thụy sách thụy sách (sách ngọc hoặc trúc khắc thụy hiệu), thụy bảo (con dấu khắc thụy hiệu) cho tiên vương.
        (19) Nghi thức Thỉnh thụy tại Tông miếu
        (20) Nghi thức Thượng thụy sách bảo: Thụy sách và Thụy bảo được dâng lên tấn điện.
Song hành với đó là công việc xây dựng vương lăng bao gồm Khán thẩm: Lựa chọn địa điểm đặt lăng tẩm cho nhà vua, Trị trang: Bắt đầu xây dựng vương lăng
       (21) Nghi thức Khởi tấn: Khoảng 5 tháng sau khi nhà vua thăng hà, quan tài được đưa ra khỏi toàn cung chuẩn bị đưa tới vương lăng.
        (22) Nghi thức Triều điện – Phát dẫn: Bắt đầu lễ tế và khởi hành đến vương lăng
      (23) Nghi thức Phát dẫn ban thứ: Đoàn rước rời khỏi cung điện tới vương lăng vào lúc nửa đêm.
       (24) Nghi thức Sơn lăng thành tấn: Quan tài nhập đinh tự các (tòa nhà hình chữ T phía trước vương lăng được xây dựng làm nơi thờ cúng). Lúc này quan tài của nhà vua được đặt trở lại toàn cung.
        (25) Nghi thức Thượng sơn lăng: Quan tài của tiên vương được rước lên kiệu Đại dư (32 – 60 người khiêng) hướng về sơn lăng.
        (26) Nghi thức Hạ huyệt cung: Quan tài của nhà vua được đặt vào huyệt mộ. Sau khi việc xây dựng hoàn tất, các tượng đá chầu tiếp tục được xây dựng quanh nơi an trí lăng mộ của tiên vương. Nghi thức quốc tang đến đây toàn tất

Nguồn: Tư liệu Bảo tàng Cố cung Hàn Quốc
Ảnh: Tang lễ Hoàng đế Cao Tông



Hình tượng cây hoa Mimosa hay một góc nhìn về tác phẩm Cô gà mái xổng chuồng (Hwang Sun-mi)

        Mimosa – tiếng gọi của ước mơ, khát vọng tự do

        Lần đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm, mimosa hiện lên với một vẻ đẹp đầy sức sống, ẩn sau đó là những trăn trở về sự tự do hằn sâu trong lòng Mầm Lá. Nó ấn tượng với cô từ những ngày đầu tiên bước vào chuồng gà. Nhờ có cánh cửa trại không đóng kín, bất cứ lúc nào Mầm Lá cũng có thể nhìn qua khe cửa để trông về phía cây hoa Mimosa. Đây chính là nguồn sống nuôi dưỡng tâm hồn của Mầm Lá, “mặc cho nhưng cơn gió lạnh mùa đông tràn về hay những cơn mưa hắt hiu khi trời vào hạ” . Hình tượng ấy, khung cảnh ấy khác xa với những gì đang diễn ra trong trại nuôi gà, nơi hàng tá những cô gà công nghiệp hàng ngày chỉ quanh quẩn với mấy công việc xơi cám và đẻ trứng, một cuộc sống tù túng, quẩn quanh, chẳng thể đi lại thậm chí đến vỗ cánh cũng không.
        Đối lập với không gian ngột ngạt ấy là cả một thế giới ngập tràn ánh sáng bên ngoài, nơi có cây hoa Mimosa đang bung nở từng chùm hoa trắng tinh khôi. “Hương hoa theo gió lan vào tận chuồng gà, thấm vào lồng ngực của Mầm Lá.” Nó khơi lên trong cô một khát khao không thể nói bằng lời, khát khao vượt thoát khỏi hàng rào sắt chật chội để ra với thế giới ngoài kia. Mặc dù tất cả những gì Mầm Lá biết về thế giới chỉ là một góc nhỏ nhìn qua khe cửa, nhưng cô vẫn luôn kỳ vọng và tự tin rằng nơi ấy có tự do và nơi ấy sẽ giúp cô thực hiện được ước mơ của đời mình: được ấp trứng và nhìn thấy gà con chào đời.
        Sự đối mặt giữa ước mơ và thực tại dần chất đầy lên tấn bi kịch trong lòng Mầm Lá, dễ hiểu rằng khi con người ta bị giam cầm, mất tự do, họ trở nên ghen tị với những gì được tự do. Mầm Lá cũng vậy, cô ghen tị với tán lá của cây Mimosa đặc biệt mỗi khi mà nó nở hoa. Mầm Lá dành thời gian của mình để quan sát từng biến đổi của tán lá.
        “Tán lá xanh mướt cô nhìn ngắm suốt mùa đông đã lớn hơn và nở ra những bông hoa đầy hương thơm tự khi nào… Lúc đầu Mầm Lá tưởng rằng trên cây hoa Mimosa chẳng có gì ngoài những bông hoa. Nhưng chỉ mấy ngày sau, những cánh hoa đã bay lả tả như những đóa tuyết rồi tàn lụi đi, chỉ còn lại tán lá xanh. Tán lá xanh sống đến tận cuối thu và được nhuộm vàng, sau đó cũng rụng rơi trong lặng lẽ. Khi thấy tán lá chống chọi với những cơn gió thổi qua và những sợi mưa hung dữ, Mầm Lá vô cùng thán phục. Mầm Lá lại tiếp tục thán phục khi ngắm nhìn sự sống màu xanh non sinh sôi vào mùa xuân sau đó.”
        Nhìn lại cuộc sống của chính mình, Mầm Lá thèm khát được sống như tán lá kia. Cô cho rằng trên đời này có lẽ sẽ chẳng còn cái tên nào đẹp hơn, ý nghĩa hơn cái tên Tán Lá. Do vậy, cô đã tự đặt cho mình tên là Mầm Lá và trở thành cô gà duy nhất trong chuồng có tên riêng, mặc dù xung quanh chẳng có ai quan tâm và gọi cô như vậy.
        Mầm Lá ôm ấp trong lòng một ước mơ thầm kín, được sống như tán lá, hoàn thiện mọi thiên chức của mình. Nếu như Tán Lá đã thực hiện hết bổn phận của nó là đón nhận hết mình nắng và gió, cho đời những chùm hoa đẹp đẽ, đến khi rơi rụng thì hòa lẫn vào nhau rồi trở thành phân bón… thì Mầm Lá cũng muốn thực hiện thiên chức tự nhiên của một cô gà đó là ấp trứng. Tuy nhiên, sự thật trớ trêu, cô được sinh ra với thân phận chỉ là một cô gà công nghiệp, tức là được nuôi chỉ để lấy trứng, đến khi già và không còn sức đẻ nữa, cô cũng sẽ bị vứt bỏ đi như một thứ đồ vô giá trị hoặc cách khác là bị làm thịt. Trong những ngày tháng ở chuồng gà, cây hoa Mimosa cùng với việc ngắm nhìn những thành viên trong gia đình là niềm an ủi, động viên và là hạnh phúc nhỏ nhoi duy nhất đối với Mầm Lá.
        Trong lúc bị ông chủ lôi ra khỏi trại gà, nằm trên chiếc xe tải chất đống những cô gà chết, bệnh, nghĩ rằng mình sắp chết mà chẳng thể thực hiện được ước mơ, hình ảnh cây hoa Mimosa lại bất giác hiện lên trong đầu Mầm Lá: “hình ảnh của tán lá xanh ngắt và hương hoa thơm ngát”. Lẽ thường, trước lúc sắp chết, người ta thường hối tiếc vì những gì cuộc đời này mình chưa đạt được. Đối với Mầm Lá đó là ước mơ được ấp trứng và nhìn thấy gà con chào đời. Trong giấc mơ ấy, cô thấy mình đang ở bên cạnh Gà Trống cùng ổ trứng hồng ấm áp, bên ngoài là những bông hoa rơi lả tả như những bông tuyết trắng. Hình ảnh ấy vốn đã chôn sâu trong lòng Mầm Lá nay ùa về như một dự cảm trước cái chết.
        Như vậy, cây hoa Mimosa từ một hình tượng thực tế đã trở thành một biểu tượng trong tâm tưởng. Nó hiện lên dưới cả hai hình thức: Một là tán cây đầy hoa với hương thơm ngạt ngào đang hiện hữu trong sân vườn, nơi mà Mầm Lá vẫn hằng ước mơ chạm tới. Hai, Mimosa đã trở thành biểu tượng tối thượng của cái Đẹp trong lòng Mầm Lá, lúc này nó mang ý nghĩa biểu trưng cho ước mơ, tự do, những khát khao không thể với đến.
        Mimosa – niềm an ủi và nguồn động lực hướng về phía trước
     Không chỉ là nơi chắp cánh cho những ước mơ và khát khao trong lòng Mầm Lá, tán cây Mimosa còn che chở cô trong lúc cảm thấy buồn bã, xấu hổ và tuyệt vọng nhất. Bị các thành viên trong gia đình sân vườn cự tuyệt và đuổi khỏi nhà kho, không còn chỗ nào để đi, Mầm Lá lại tìm đến, ngồi thu mình dưới gốc cây Mimosa. Như một nguồn động lực vô hình nhắc nhở, ở góc bình yên ấy, Mầm Lá chợt nhớ về những ngày tháng trước đây. Ai đó đã đúng khi khuyên rằng, mỗi lúc bạn cảm thấy mệt mỏi vì những vấp ngã, khó khăn trên đoạn dường dài, hãy bình tâm và nhớ lại lý do đã khiến bạn bắt đầu. Giữa lúc nỗi tuyệt vọng bao trùm, nghĩ về cái chuồng gà chật hẹp, tù túng đến mức không thể vỗ cánh được, Mầm Lá không khỏi phấn chấn, vỡ lẽ rằng, dẫu sao cô cũng đã có được kỳ tích đầu tiên đó là có được tự do.
        Tán cây Mimosa một lần nữa trở thành người bạn động viên tinh thần cho Mầm Lá. Nhìn ngắm cây Mimosa đang vươn mình thẳng về phía bầu trời, Mầm Lá như được tiếp thêm nguồn năng lượng mới. Cô nhất định phải sống một cuộc đời trọn vẹn và hết mình như tán lá ấy, nhất định phải sống, phải đẻ trứng và nhìn thấy gà con chào đời. Như tán lá kia dũng cảm đón nhận gió sương, dẫu có trút hết lá khi trời vào đông, rồi cũng sẽ trổ ra búp non mơn mởn và cho đời những đóa hoa trắng tinh khôi vào mùa xuân, Mầm Lá cũng vậy, cô sẽ tiếp tục sống bằng tất cả niềm tin và sức mạnh để có thể đạt đến ước mơ.
        Sau khi quả trứng của Vịt trời và Vịt trắng đã được Mầm Lá ấp nở thành một chú vịt con xinh đẹp, cô lại dắt con trở về sân vườn đứng dưới tán cây Mimosa với lòng tự hào và vui sướng khôn tả. Dẫu không phải quả trứng tự mình đẻ ra, nhưng với việc coi nó như con mình, Mầm Lá đã hoàn thành được ước mơ của cô. Giống như tán cây Mimosa tỏa mát một vùng, nằm dang cánh ôm con, Mầm Lá quyết định dù có phải chịu nhục cũng sẽ nuôi con khôn lớn.
        Với vai trò là nguồn động viên, nguồn lực tiếp sức cho ước mơ của Mầm Lá. Mimosa xuất hiện dưới cả hai hình thức hiện thực và tinh thần. Gốc cây Mimosa có thực cuối vườn là nơi Mầm Lá đến trú ngụ sau khi bị đuổi khỏi nhà kho cũng là nơi Mầm Lá đào ổ trong những nỗ lực để có thể đẻ trứng, nơi cô cùng vịt con cất bước trở về. Không gian ấy tạo cho Mầm Lá cảm giác được an toàn, cách xa nơi canh giữ của bác Chó già lúc nào cũng gầm gừ và xa tầm mắt của mụ Chồn, kẻ đi săn lúc nào cũng rình rập để ăn thịt cô và con trai. Vượt lên trên góc độ hình thức, hình ảnh Mầm Lá ngước nhìn lên tán cây Mimosa đang vươn thẳng lên trời cao còn gợi đến lời hứa của cô gà với chính bản thân mình, đồng thời như một lời dự báo về tương lai của chính cô. Mầm Lá sẽ sống một cuộc đời trọn vẹn với những gì mà cô theo đuổi, đúng như cách mà Vịt trời Kẻ Lang thang đã ca ngợi, một cuộc đời “vĩ đại như tán lá”.
        Những bông hoa tuyết Mimosa – hiện thân của tự do cuối cùng
        Lần cuối cùng hình ảnh Mimosa xuất hiện trong câu chuyện chính là những giây phút cuối cùng trong cuộc đơi Mầm Lá. Sau khi tiễn đứa con mà mình đã vất vả bấy lâu để nuôi nấng, bằng tình thương vượt ra khỏi ranh giới giữa sự sống và cái chết, “Mầm Lá vừa ngước lên nhìn bầu trời trống rỗng, vừa thấy cô độc một cách đáng sợ”. Nhìn những bông tuyết bay bay trong gió, đẹp như làn mưa hoa Mimosa, Mầm Lá nở nụ cười mãn nguyện: “Ôi, thì ra hoa Mimosa đã tàn rồi đấy”. Trải qua bao thăng trầm, từ mùa xuân bung nở đến mùa đông tàn úa, Mimosa đã sống trọn số kiếp của nó và Mầm Lá cũng vậy, trong lòng cô lúc này đã manh nha xuất hiện những dự cảm về cái chết.
        Ngay từ những giây phút ban đầu, Mimosa đã hiện lên như hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời Mầm Lá thì đến lúc này, khi hoa tàn lá rụng cũng chính là dự báo cho việc cô sắp phải ra đi. Tuy nhiên, không hề cô độc, lạnh lẽo, cô cảm thấy lòng mình vui sướng hơn bao giờ hết, cũng như những cánh hoa kia đã mãn nguyện vì đã sống trọn với phần thiên tính của chính mình. Trong phút chốc, Mầm Lá xả bỏ xác thân của mình làm mồi cho mụ Chồn, tất cả lúc này chỉ còn là khoảng tối mờ mịt. Không gian dần sáng trở lại, Mầm Lá mở mắt thấy bầu trời xanh chói lòa. Cô đang bay, thật sự đang bay. Mầm Lá rẽ gió bằng đôi cánh rộng và đẹp, ngắm nìn khung cảnh tất cả đang nằm phía dưới.
        Với việc tiếp nhận cái chết, Mầm Lá đã chạm đến sự tự do cuối cùng, cảm giác tự do mà cuộc đời cô chưa từng có. Nếu như sự tự do sau khi thoát khỏi sân vườn phải chịu hy sinh nhường chỗ cho tấm lòng vĩ đại của người mẹ thì giờ đây Mầm Lá đã có lại được nó. Như những cánh hoa Mimosa trong trắng, tinh khôi, Mầm Lá nhẹ nhàng bay theo gió, kết thúc một cuộc đời trọn vẹn, lắm bão tố nhưng cũng đầy những kỳ tích. Đó là một cuộc đời đáng kính trọng mà có lẽ sẽ chẳng mấy người dám đánh đổi để có thể có được và làm được.
        Thay lời kết – Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của hình tượng
        Cây hoa Mimosa hiện lên trong tác phẩm chính là dự cảm về cuộc đời của nhân vật Mầm Lá. Từ sự tiếp nhận thông qua cái nhìn hết sức tự nhiên của Mầm Lá từ khe cửa chuồng gà, Mimosa đã gợi lên những biểu tượng của tự do và hạnh phúc nằm ngoài tầm với. Sự tự do đó được thể hiện qua hình ảnh tán cây vươn thẳng lên trời cao, lá xanh mơn mởn, những bông hoa trắng tinh khôi và qua chính sự ghen tỵ của Mầm Lá.
        Từ một sinh vật hiện hữu, Mimosa đã đi vào thế giới tinh thần của Mầm Lá như một ẩn ức về sự tự do và khao khát đạt đến tự do. Mimosa gợi nhắc Mầm Lá nhớ về ước mơ của mình và tiếp nguồn động lực để cô dũng cảm tiến lên thực hiện ước mơ. Mimosa cùng những ám ảnh của nó đã theo suốt Mầm Lá từ những ngày còn trong trại gà đến khi từ giã cuộc sống. Đó không chỉ là cái cây mà Mầm Lá vẫn thường ngắm nhìn, không đơn thuần là nơi cô đào ổ để chuẩn bị đẻ trứng mà thực sự đã trở thành một tượng đài tinh thần trong thế giới quan của Mầm Lá. Đó là lời hứa của cô với chính bản thân: lời hứa sẽ sống trọn kiếp mình, thực hiện ước mơ để có một cuộc đời giống như tán lá.
        Hình tượng cây hoa Mimosa xuất hiện chín lần trong toàn bộ câu chuyện dưới cả hai hình thức trực tiếp và gián tiếp là nhân tố góp phần thúc đẩy mạch truyện, đặc biệt là gắn liền với sự thay đổi tâm lý trong lòng Mầm Lá. Trên mỗi sự thay đổi lớn của cuôc đời cô đều có sự hiện hữu của tán cây. Giả sử nếu như bỏ qua hình tượng này, chúng tôi tin rằng, câu chuyện sẽ vẫn có thể tiếp tục diễn ra nhưng sẽ mất đi sự tự nhiên và sức hấp dẫn của nó. Mimosa chính là một trong những nhân tố giúp Mầm Lá trở nên khác với những cô gà mái khác, là nguồn động lực tiếp sức cho cô trở nên dũng cảm hơn, từ đó đạt đến kỳ tích.
        Xét từ góc độ nghệ thuật, Mimosa là hình ảnh ẩn dụ đã được xây dựng một cách hoàn hảo bởi nhà văn Hwang Sun Mi. Ở góc nhìn rộng đó là sự ẩn dụ về cuộc đời của nhân vật Mầm Lá với ước mơ, tình yêu, khát khao cháy bỏng đồng thời chứa đựng nhiều ám ảnh. Ở góc nhìn hẹp hơn, Mimosa là tiếng gọi của sự tự do, là cái tận thiện, tận mĩ đối với Mầm Lá, nó giúp cô tự tin hơn, có đủ dũng khí để tiếp tục thực hiện ước mơ.
        Hình tượng Mimosa trong tác phẩm Cô gà mái xổng chuồng đã được xây dựng dưới cả hai góc độ hiện thực và tâm tưởng. Mimosa ở mỗi một góc độ tiếp cận đều cho thấy một thế giới biểu tượng phong phú được tạo dựng nên bằng từng thành tố ký hiệu đa dạng. Độc giả bằng cách này hay cách khác đều đã bị nó lôi cuốn vào trong thế giới nghệ thuật riêng cùng những biến đổi trong tâm lý, tình cảm của cô gà mái Mầm Lá. Nó giúp ta hiểu hơn thế nào là ước mơ và làm sao để thực hiện ước mơ. Điều đơn giản trước hết đó phải là phải sống hết mình, sống đúng với những gì mình có.





[Đàn bồ câu phường Seongbuk - Kim Gwang-seop]

  Ở phường Seongbuk phía sau Thành Quân Quán có một mảnh vườn nhỏ mang tên "Công viên bồ câu" - gợi nhớ về nơi từng là nhà của lũ ...