Thứ Ba, 23 tháng 11, 2021

[Hội thảo] Đổi mới phương pháp ra đề thi trắc nghiệm môn Lịch sử (Ứng dụng trắc nghiệm phức hợp từ kinh nghiệm Hàn Quốc)

        Bài viết được đăng trong Kỷ yếu Hội thảo Chương trình Giáo dục Lịch sử Phổ thông 2018 và sách giáo khoa lịch sử mới từ nội dung đến thực tiễn triển khai, NXB Khoa học Xã hội (2021). 

        Tóm tắt: Từ năm 2017 đến nay, bài thi THPT Quốc gia môn Lịch sử được ghép chung vào tổ hợp các môn thi Xã hội (bao gồm Lịch sử, Địa lý và Giáo dục công dân) dưới hình thức thi trắc nghiệm. So với hình thức thi tự luận truyền thống, thi trắc nghiệm sở hữu nhiều ưu điểm như: tiết kiệm thời gian và chi phí triển khai, nâng cao tính khách quan và tính chính xác trong quá trình chấm bài, thí sinh có thể kiểm tra và tính điểm sau khi bài thi kết thúc. Tuy nhiên, cũng có nhiều ý kiến cho rằng, hình thức thi trắc nghiệm có nhược điểm trong việc hạn chế khả năng tư duy của học sinh và khó đánh giá được khách quan năng lực học sinh. Bên cạnh đó, các câu hỏi trong hệ thống ngân hàng đề thi cũng thường xuyên lặp lại. Trên cơ sở phương pháp nghiên cứu tư liệu, tham chiếu kinh nghiệm ra đề thi trắc nghiệm môn Lịch sử tại Hàn Quốc, bài viết sẽ trình bày đặc điểm của dạng câu hỏi trắc nghiệm phức hợp, từ đó thiết kế một số câu hỏi tham khảo tương ứng với nội dung lịch sử Việt Nam. Dạng câu hỏi trắc nghiệm phức hợp có thể kiểm tra về nhiều dữ kiện lịch sử trong cùng một câu hỏi đồng thời với việc sử dụng nguồn dữ liệu/ sử liệu phong phú, phương án này sẽ góp phần làm đa dạng hóa ngân hàng đề thi và đáp ứng nhu cầu về dạy học tích hợp trong bối cảnh giáo dục hiện đại tại nước ta.

 

        Từ khóa: câu hỏi phức hợp, kiểm tra đánh giá môn lịch sử, giáo dục Hàn Quốc


         1. Đặt vấn đề: Quan điểm về kiểm tra đánh giá môn học

        Kiểm tra đánh gia là khâu cuối cùng cũng là khâu đặc biệt quan trọng trong quá trình dạy – học. Bởi lẽ, đây là khâu phản ảnh kết quả học tập cùng những thu nhận, phản hồi của người học đồng thời cung cấp chỉ báo giúp người dạy và người hoạch định chính sách giáo dục điều chỉnh lại những nội dung bên trong quá trình giáo dục. Do vậy, để phục vụ mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo hướng hiện đại, lấy người học làm trung tâm thì việc đổi mới chương trình và sách giáo khoa  mới chỉ là một phần của vấn đề. Cụ thể, cần có sự đầu tư nghiên cứu, áp dụng những hình thức kiểm tra đánh giá đa dạng từ đó tác động ngược trở lại quá trình dạy học. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong giáo dục phổ thông tại Việt Nam khi thi cử đã trở thành một trong những mục tiêu hàng đầu của công tác dạy – học, việc thiết kế nội dung giảng dạy – ôn tập được điều chỉnh để phục vụ cho bài thi THPT Quốc gia. Do vậy, bài nghiên cứu này đặt nền tảng trên tiền đề: Đổi mới hình thức ra đề trắc nghiệm THPT Quốc gia có thể tác động trở lại làm phong phú thêm cho quá trình dạy – học, kiểm tra đánh giá trong chương trình trung học phổ thông.

        Với đặc thù môn học Lịch sử, theo Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử[1]của Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018) có thể thấy việc đánh giá môn học được phân bậc theo ba mức độ: Biết – Hiểu – Vận dụng. Tuy nhiên, nếu tham chiếu với đề thi trắc nghiệm THPT Quốc gia môn Lịch sử với khung đánh giá năng lực của Bộ Giáo dục thì sẽ thấy còn nhiều kỹ năng chưa được phản ánh trong bài kiểm tra đánh giá.

         Biết: Nhận diện tư liệu lịch sử, biết cách khai thác tư liệu lịch sử. Đặt đúng vị trí của sự kiện, nhân vật, giai đoạn lịch sử (trên đường thời gian, biểu đồ lịch sử,...)…

         Hiểu: Sử dụng được bản đồ, lược đồ, biểu đồ để giới thiệu về các sự kiện, hành trình lịch sử, những biến đổi quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội ở một số quốc gia trên thế giới và Việt Nam. Lập được đường thời gian (timeline) hoặc xây dựng được sơ đồ tiến trình lịch sử, diễn biến chính của các sự kiện (các cuộc chiến tranh, khởi nghĩa, trận đánh lớn, các cuộc cách mạng, cải cách,...)…

         Vận dụng: Tự tìm hiểu, đặt câu hỏi để khám phá những khía cạnh, bối cảnh, phương diện khác nhau của các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử. Hoàn thành được các bài tập vận dụng kiến thức trong các tình huống không thay đổi nhằm rèn luyện kĩ năng cơ bản, củng cố kiến thức lịch sử. Biết tìm tòi, khám phá thông qua sử liệu, tài liệu hoặc tham quan, dã ngoại để trả lời các câu hỏi khác nhau về một sự kiện, vấn đề, nhân vật lịch sử…

        Nếu quan sát những tiêu chí kỹ năng trên, có thể nhận thấy một số hạn chế rõ rệt của cách ra đề trắc nghiệm truyền thống trong việc phản ảnh tiêu chí đánh giá. Thứ nhất là sự thiếu vắng sử liệu sơ cấp trong bài thi lịch sử, trong khi đối với giáo dục lịch sử, việc tiếp cận – phân tích – đánh giá sử liệu cần phải trở thành mục tiêu hàng đầu về mặt phương pháp. Thứ hai là sự thiếu vắng các tư liệu thị giác trong bài thi mà trong chương trình đã đề ra như hình ảnh, bản đồ, biểu đồ lịch sử, đường thời gian (timeline). Thứ ba là dạng bài tập vận dụng chưa được quan tâm đúng mức, các dạng bài tập thiết kế hoạt động điền dã, tìm hiểu tài liệu, tự đặt câu hỏi về một sự kiện, vấn đề, nhân vật lịch sử… chưa được triển khai trong bài thi.

        Trên cơ sở nhận thức một số điểm hạn chế khi so sánh mục tiêu đánh giá và bài thi THPT Quốc gia môn Lịch sử hiện hành, bài viết đặt mục tiêu tìm kiếm phương ấn đổi mới cách ra đề trắc nghiệm môn Lịch sử dựa trên việc tham khảo kinh nghiệm thiết kế bài thi môn Lịch sử tại Hàn Quốc.

        2. Phân tích loại hình câu hỏi trong đề thi trắc nghiệm đại học tại Hàn Quốc

        Bắt đầu từ năm học 2017, nội dung kiểm tra đánh giá lịch sử Hàn Quốc tách khỏi bài thi tổng hợp các môn xã hội để hình thành bài thi riêng biệt, yêu cầu bắt buộc đối với tất cả các thí sinh dự thi tuyển sinh đại học tại Hàn Quốc (bên cạnh môn ngữ văn, toán, tiếng Anh và ngoại ngữ 2). Đề thi bao gồm tổng cộng 20 câu hỏi từ lịch sử Hàn Quốc thời kì nguyên thủy cho đến thời kì hiện đại với tổng số điểm là 50 điểm. Thí sinh được yêu cầu hoàn thành bài thi trong thời gian 30 phút.

        Căn cứ theo văn bản Hướng dẫn học tập lịch sử Hàn Quốc ban hành bởi Viện Đánh giá Chương trình Giáo dục Hàn Quốc (2017), đề thi lịch sử được kết cấu theo 10 loại hình cơ bản tương ứng với 10 kỹ năng cần đạt được bao gồm: Nắm bắt thông tin lịch sử cơ bản; Hiểu được khái niệm hoặc thuật ngữ lịch sử quan trọng; Nắm bắt được diễn tiến của sự kiện lịch sử; Nhận thức về bối cảnh lịch sử; So sánh bối cảnh lịch sử các thời kì; Tìm kiếm phương pháp thích hợp và tiến hành hoạt động tham cứu; Phân tích nội dung trọng tâm có trong tư liệu lịch sử; Suy luận thông tin lịch sử thông qua phân tích tư liệu; Tưởng tượng về bối cảnh khả thi dựa trên nền tảng tư liệu lịch sử; Đưa ra phán đoán về tính thích hợp của hành vi hoặc chủ trương xuất hiện trong lịch sử.

        Trên cơ sở nguồn dữ liệu đề thi tuyển sinh đại học môn Lịch sử Hàn Quốc trong những năm gần đây, bài viết sẽ tiến hành phân tích cụ thể hơn về từng loại hình cũng như độ khó trong quá trình đánh giá.

         Nắm bắt thông tin lịch sử cơ bản: Đánh giá mức độ hiểu biết về sự thật lịch sử cơ bản hoặc có tầm quan trọng.



         Hiểu được khái niệm hoặc thuật ngữ lịch sử quan trọngĐánh giá về năng lực hiểu biết về khái niệm hoặc thuật ngữ cơ bản trong chương trình lịch sử.

        


         Nắm bắt được diễn tiến của sự kiện lịch sửĐánh giá năng lực hiểu biết thứ tự về thời gian của các sự kiện lịch sử và nắm bắt tính liên quan về nhân quả của chuỗi sự kiện.

        


         Nhận thức về bối cảnh lịch sửĐánh giá năng lực nhận thức của thí sinh về bối cảnh lịch sử xã hội đương thời thông qua các sử liệu, di vật, di tích.

        

        

         So sánh bối cảnh lịch sử các thời kìĐánh giá về năng lực so sánh về bối cảnh lịch sử của hai thời kì khác nhau trong lịch sử và nắm bắt sự biến đổi giữa hai thời kì đó.

    

        

         Tìm kiếm phương pháp thích hợp và tiến hành hoạt động tham cứuĐánh giá năng lực tìm kiếm tư liệu liên quan hoặc lên kế hoạch cho phương pháp tìm hiểu liên quan đến những câu hỏi quan trọng đến tiến hành hoạt động tham cứu.



          Phân tích nội dung trọng tâm có trong tư liệu lịch sửDạng câu hỏi này đánh giá năng lực phân tích bối cảnh lịch sử mà tư liệu hay nội dung trọng tâm của tư liệu xuất hiện.



          Suy luận thông tin lịch sử thông qua phân tích tư liệu: Dạng câu hỏi này đánh giá về năng lực phân tích bối cảnh hoặc sự thay đổi của một thời kì cụ thể xuất hiện trong tư liệu.



         Tưởng tượng về bối cảnh khả thi dựa trên nền tảng tư liệu lịch sửĐánh giá năng lực tưởng tượng về bối cảnh liên quan đến tư liệu lịch sử hoặc phán đoán xem một tưởng tượng có đúng với bối cảnh lịch sử hay không.

        


         Đưa ra phán đoán về tính thích hợp của hành vi hoặc chủ trươngĐánh giá năng lực phán đoán về tính thích hợp của hành vi hoặc chủ trương sau khi xem xét bối cảnh lịch sử đương thời hoặc tìm kiếm những căn cứ của chủ trương trong lịch sử.


            3. Áp dụng xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm về lịch sử Việt Nam

        Qua những phân tích ở phần trên, có thể thấy, sự khác biệt cơ bản về mặt hình thức giữa câu hỏi trắc nghiệm lịch sử giữa Việt Nam và Hàn Quốc đó là Việt Nam đang tiến hành xây dựng câu hỏi dạng đơn tuyến còn Hàn Quốc xây dựng câu hỏi dạng phức hợp. Cụ thể, dạng câu hỏi trong bài thi THPT Quốc gia được tiến hành theo motif cho thông tin về nhân vật/ sự kiện A, yêu cầu chọn đáp án đúng với bối cảnh, chủ trương/đường lối, nội dung diễn biến, nguyên nhân/ý nghĩa của A. Trong khi đó, đối với câu hỏi trắc nghiệm trong bài thi đại học môn Lịch sử Hàn Quốc, câu hỏi thiết kế theo dạng cho thông tin liên quan đến nhân vật/ sự kiện A → Người học cần thông qua thông tin cho trước xác nhận A là nhân vật/ sự kiện nào → Tìm kiếm đáp án phù hợp với yêu cầu đề bài về A. Như vậy, thực chất của dạng câu hỏi phức hợp này là qua một câu hỏi có thể đồng thời kiểm tra ít nhất hai dữ kiện. Điều này không chỉ giúp nâng cao tính phân loại học sinh của câu hỏi mà còn có thể hạn chế việc lựa chọn đáp án theo kiểu may rủi của học sinh. Bên cạnh đó, hình thức ra đề trên còn có ưu điểm khi khai thác được lượng dữ liệu quan trọng mà bài thi THPT Quốc gia đang bỏ sót đó là sử liệu cùng hệ thống tư liệu thị giác khác như biểu đồ, hình ảnh, bảng biểu, timeline,… và đặc biệt đáng chú ý là dạng câu hỏi yêu cầu xây dựng kế hoạch tìm hiểu lịch sử.

        Dựa trên kinh nghiệm mô hình bài thi tuyển sinh đại học môn Lịch sử tại Hàn Quốc, bài viết đã tiến hành xây dựng một số câu hỏi mẫu cho bài thi lịch sử Việt Nam (tham khảo phần phụ lục của bài viết). Để đánh giá về tính khả thi của phương án ra đề trắc nghiệm này, bài viết sẽ sử dụng khung phân tích SWOT[2] để tìm hiểu cụ thể hơn về từng khía cạnh của vấn đề.

 

Điểm mạnh

Điểm yếu

(1) Hình thức trình bày trực quan, sinh động, dễ thu hút sự quan tâm của người học.

(2) Bảo lưu tính khách quan của kiểm tra đánh giá theo hình thức trắc nghiệm.

(3) Mở rộng việc khai thác tư liệu ngoài sách giáo khoa, học sinh có thể tiếp xúc trực tiếp với nguồn tư liệu lịch sử.  

(4) Hạn chế được vấn đề trùng lặp về nội dung câu hỏi qua các năm từ đó giảm thiểu việc học gạo, học tủ.

(1) Cần đầu tư thời gian và công sức để xây dựng ngân hàng đề thi.

(2) Hình thức đánh giá mới, chưa phổ biến tại nhà trường phổ thông.

Cơ hội

Thách thức

(1) Phát triển kỹ năng phân tích, đánh giá tư liệu lịch sử cho học sinh.

(2) Phát triển kỹ năng xây dựng kế hoạch, dự án tìm hiểu về lịch sử.

(3) Phát triển tư duy dạy – học tích hợp liên môn theo định hướng chung.

(1) Phạm vi đánh giá tương đối rộng, đòi hỏi tư duy phức hợp ở người học.

(2) Trong một số trường hợp, việc đổi mới phương án thi cần thi kèm đổi mới phương pháp dạy và học trong nhà trường.

 

        Trên cơ sở những phân tích khái quát trên, có thể thấy rõ những ưu điểm trong cách ra đề này trên cả hai phương diện hình thức và nội dung. Về mặt hình thức, đề thi khai thác tốt các yếu tố thuộc về thị giác bao gồm cả thiết kế đề thi cho đến các sử liệu thị giác (hình ảnh, biểu đồ,…). Việc bổ sung phương pháp học tập – đánh giá có sử dụng các yếu tố thị giác như trên góp phần thúc đẩy việc tiếp nhận kiến thức một cách đa dạng và đẩy mạnh tư duy ở bán cầu não phải ở một môn học mà kỹ năng thính giác (nghe giảng) và tư duy bằng bán cầu não trái chiếm ưu thế như lịch sử[3]. Điều này giúp đa dạng hóa phương pháp học tập cho từng đối tượng người học dựa trên lý thuyết trí thông minh đa dạng của Howard Gardner. Hình thức ra đề sử dụng hình ảnh minh họa trực quan và các sử liệu dạng bảng biểu, hình ảnh đang là xu hướng được sử dụng rộng rãi tại nhiều nước phát triển trong đó có Nhật Bản và Hàn Quốc[4]

        Về cách đặt vấn đề, tính phức hợp của phương pháp ra đề còn thể hiện ở điểm, so với cách hỏi truyền thống về nguyên nhân/ diễn biến/ ý nghĩa/ vai trò/ tác động của sự kiện/ nhân vật X sau đó đưa ra 4 phương án trả lời, thí sinh cần phải trải qua ít nhất hai bước tư duy, đầu tiên là dựa trên những dữ kiện cho trước, xác định được nhân vật/ sự kiện X sau đó mới liên hệ và xác định các đặc điểm gắn với nhân vật/ sự kiện đó. Ví dụ trong câu hỏi minh hoạt cho dạng học sinh cần xác nhận được đây là nội dung của văn bản nào (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – một văn bản quan trọng trong chương trình phổ thông) sau đó mới liên hệ đến bối cảnh để tìm ra đáp án thích hợp.

        Bên cạnh đó, về mặt nội dung, phương pháp này mở ra cơ hội áp dụng tích hợp nguồn dữ liệu từ các nguồn văn học (tác phẩm cùng/về thời kì lịch sử) và địa lý (bản đồ, lược đồ), đáp ứng ba nguyên tắc tích hợp – hợp tác – tổng hợp của việc dạy học tích hợp liên môn[5] mà giáo dục Việt Nam đang hướng tới. Đồng thời, hệ thống câu hỏi phức hợp có triển vọng khả quan trong việc nâng cao khả năng tiếp cận và phân tích tư liệu lịch sử cho học sinh từ đó giúp hình thành và phát triển tư duy khoa học lịch sử. Điều này phản ánh mối quan hệ hữu cơ gắn bó chặt chẽ giữa khoa học lịch sử và giáo dục lịch sử, điều cần hướng đến trong quá trình dạy và học tại trường phổ thông.   

        Tuy nhiên, như đã chỉ rõ trong phần điểm yếu và thách thức, dạng câu hỏi phức hợp vẫn còn mới lạ trong thực tiễn giáo dục phổ thông tại Việt Nam, do vậy nếu như có thể áp dụng trong thời gian tới cần tiến hành nghiên cứu thử nghiệm, xây dựng bộ câu hỏi cho ngân hàng đề thi và tiến hành thực nghiệm trong nhà trường.

        4. Kết luận và kiến nghị

        Trên cơ sở tiến hành khảo cứu và phân tích hướng dẫn cách ra đề thi đại học môn Lịch sử và đề thi thực tế môn lịch sử giai đoạn 2017 – 2020 tại Hàn Quốc, bài viết đã áp dụng và xây dựng một số dạng câu hỏi trắc nghiệm tương ứng với nội dung môn học lịch sử Việt Nam. Bài viết cũng đã đánh giá khái quát về điểm mạnh, hạn chế, cơ hội cũng như thách thức của phương pháp ra đề trắc nghiệm theo dạng câu hỏi phức hợp. Trên cơ sở đó, có thể thấy, đây là phương án có tính khả thi đồng thời mang lại nhiều triển vọng trong việc phát triển kỹ năng đặc biệt là tư duy phân tích sử liệu cho học sinh giúp gắn bó chặt chẽ tư duy khoa học lịch sử với giáo dục lịch sử trên ghế nhà trường. Trong những hướng nghiên cứu tiếp theo, cần tiếp tục mở rộng việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về đề thi và bố sung thêm các nghiên cứu mang tính thực nghiệm để thu thập ý kiến đánh giá từ phía người dạy và người học. 

 

        DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử  (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Hà Nội

Đoàn Văn Điều (2016). “Tương quan giữa bán cầu não chiếm ưu thế - Kiểu học tập với kết quả học tập”. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TPHCM, số 1 (79), tr.16-24.

Đỗ Hương Trà (2015). “Nghiên cứu dạy học tích hợp liên môn: những yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng, lựa chọn nội dung và tổ chức dạy học”. Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội: Nghiên cứu Giáo dục, tập 31, số 1 (2015). tr.44-51.  

Nguyễn Quốc Vương (2016). “Những đề thi trắc nghiệm môn Lịch sử ở Nhật Bản”. Báo điện tử Vietnamnet. Truy cập ngày 15/6/2021. https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/de-thi-trac-nghiem-mon-lich-su-o-nhat-ban-duoc-thiet-ke-nhu-the-nao-328873.html

 Viện Đánh giá Chương trình Giáo dục Hàn Quốc (2017). Đề thi Đại học môn Lịch sử năm học 2017. Truy cập ngày 1/6/2021. https://www.kice.re.kr/

Viện Đánh giá Chương trình Giáo dục Hàn Quốc (2017). Hướng dẫn học tập môn Lịch sử Hàn Quốc cho bài thi đánh giá năng lực vào đại học năm học 2018 qua tìm hiểu các dạng bài. Viện Đánh giá Chương trình Giáo dục Hàn Quốc xuất bản.

Viện Đánh giá Chương trình Giáo dục Hàn Quốc (2018). Đề thi Đại học môn Lịch sử năm học 2018. Truy cập ngày 1/6/2021. https://www.kice.re.kr/

Viện Đánh giá Chương trình Giáo dục Hàn Quốc (2019). Đề thi Đại học môn Lịch sử năm học 2019. Truy cập ngày 1/6/2021. https://www.kice.re.kr/

Viện Đánh giá Chương trình Giáo dục Hàn Quốc (2020). Đề thi Đại học môn Lịch sử năm học 2020. Truy cập ngày 1/6/2021. https://www.kice.re.kr/

 

 

INNOVATION IN METHOD OF ISSUING HISTORY MULTIPLE-CHOICE QUESTIONS (COMPLEX MULTIPLE CHOICE FORMAT APPLICATION FROM KOREA EXPERIENCE)

 

Abstract: From 2017 to now, the National High School History Exam has been combined into the combination of Social subjects (including History, Geography and Civic Education) in the form of Multiple-choice questions. Compared to the traditional essay form, multiple-choice format has many advantages such as: saving time and cost of implementation, improving objectivity and accuracy in the marking process, candidates can check and estimate the score after the test. However, there are also many opinions that the multiple-choice format has disadvantages in limiting students' thinking ability and makes it difficult to assess student capacity objectively. Besides, the questions in the test bank system are also frequently repeated. On the basis of the researching method, referencing the experience of issuing History multiple-choice questions in Korea, the article will present the characteristics of the complex multiple-choice question type, thereby designing some referencing questions corresponding to the content of Vietnamese history. Complex multiple-choice question format that can test multiple historical facts in the one question and use a wide variety of data/historical sources, this option will contribute to diversifying the test bank and meet the requirements of integrated teaching in the context of modern education in our country.

 

Keywords: Complex questions, History assessment test, Korean education


<PHỤ LỤC>: CÂU HỎI TRẮC NGHIỆM PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM

 









 

 


 




[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018). Chương trình giáo dục phổ thông môn Lịch sử  (Ban hành kèm theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 25 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo). Hà Nội

[2] Khung đánh giá SWOT bao gồm có Strengths (Điểm mạnh), Weaknesses (Điểm yếu), Opporturnities (Cơ hội) và Threats (Thách thức)

[3] Kết quả khảo sát tham khảo nghiên cứu của Đoàn Văn Điều (2016). “Tương quan giữa bán cầu não chiếm ưu thế - Kiểu học tập với kết quả học tập”. Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TPHCM, số 1 (79), tr.16-24.

[4] Về cách ra đề thi đại học môn Lịch sử tại Nhật Bản, tham khảo bài viết của Nguyễn Quốc Vương (2016). “Những đề thi trắc nghiệm môn Lịch sử ở Nhật Bản”. Báo điện tử Vietnamnet. Truy cập ngày 15/6/2021. https://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-hoc/de-thi-trac-nghiem-mon-lich-su-o-nhat-ban-duoc-thiet-ke-nhu-the-nao-328873.html

[5] Tham khảo: Đỗ Hương Trà (2015). “Nghiên cứu dạy học tích hợp liên môn: những yêu cầu đặt ra trong việc xây dựng, lựa chọn nội dung và tổ chức dạy học”. Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội: Nghiên cứu Giáo dục, tập 31, số 1 (2015). tr.44-51.   


Thứ Hai, 8 tháng 11, 2021

[Hội thảo] Khai thác nguồn tư liệu dịch Việt-Hàn cho môn học Dịch văn bản tin tức báo chí (Trường hợp cơ sở dữ liệu Kênh truyền thông đối ngoại – Đài tiếng nói Việt Nam)

Bài viết nằm trong khuôn khổ Hội thảo KF Friends Networking 2021 국제 학술대회: 새로운 배경 속 베트남 대학의 한국어 교육 과제 tổ chức tại Đại học Hà Nội (11/2021)




Tóm tắt: Trong những năm gần đây, ngôn ngữ Hàn và Hàn Quốc học đã trở thành một ngành đào tạo thu hút được nhiều quan tâm tại Việt Nam. Trong số đó, định hướng đào tạo chuyên ngành biên – phiên dịch tiếng Hàn là một trong số các hướng đi phổ biến nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tại các đơn vị đào tạo, bên cạnh các học phần tổng quát như Lý thuyết dịch, Đối dịch Hàn – Việt,… thì các học phần dịch chuyên ngành như Dịch phim, Dịch hợp đồng thương mại, Dịch văn bản tin tức báo chí… cũng đang được đầu tư xây dựng nhằm cung cấp lượng kiến thức và kỹ năng đa dạng cho người học. Trong số đó, học phần Dịch văn bản tin tức báo chí sẽ tạo cơ hội cho người học tiếp cận và làm quen với ngôn ngữ báo chí mang đặc trưng liên quan đến tính quy chuẩn, chặt chẽ về mặt hình thức, tính mạch lạc và súc tích về nội dung, văn phong,… Do đó, đây sẽ là môn học có thể củng cố nền tảng về kỹ năng dịch cho sinh viên chuyên ngành tiếng Hàn. Trên cơ sở giới thiệu về kênh truyền thông đối ngoại Đài Tiếng nói Việt Nam, một nguồn tài liệu dịch Việt – Hàn đảm bảo về tính quy chuẩn đối với ngôn ngữ báo chí, bài viết tập trung tìm hiểu về phương án ứng dụng, đồng thời xây dựng mẫu thiết kế bài giảng dựa trên cơ sở dữ liệu này trong thực tiễn hoạt động giảng dạy.  

          Từ khóa: Giáo dục tiếng Hàn, Biên phiên dịch tiếng Hàn, Dịch văn bản tin tức báo chí, Biên dịch chuyên ngành

            

           1. Đặt vấn đề: Tính thiết yếu của môn học và nguồn tư liệu cho môn học Dịch văn bản tin tức báo chí

          Đào tạo hệ cử nhân chuyên ngành ngôn ngữ Hàn theo định hướng ứng dụng – biên phiên dịch đã và đang là một trong những lựa chọn nhận được sự quan tâm, đầu tư từ cả phía người học và các đơn vị đào tạo tại Việt Nam. Đây cũng là định hướng đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu tuyển dụng biên phiên dịch đang không ngừng mở rộng của thị trường lao động Việt – Hàn. Để đáp ứng nhu cầu đó, đồng thời củng cố chất lượng đào tạo, nhu cầu cấp thiết đặt ra cho các đơn vị là bổ sung, cập nhật và nâng cao hiệu quả các học phần giảng dạy chuyên ngành liên quan đến kỹ năng biên phiên dịch. Trong số đó, có thể kể đến một số học phần tiêu biểu như Dịch văn bản tin tức báo chí, Dịch phim, Dịch văn học, Dịch chuyên đề Kinh tế - Thương mại, Dịch chuyên đề Văn hóa – Xã hội,…

          Trong các học phần dịch chuyên ngành kể trên, Dịch văn bản tin tức báo chí có thể coi là môn học mang tính nền tảng bởi yêu cầu đáp ứng chuẩn ngôn ngữ của ngôn ngữ báo chí. Nội dung căn bản của chuẩn ngôn ngữ mà ngôn ngữ báo chí hướng đến là cái đúng sự thích hợp. Cái đúng được hiểu là tiêu chuẩn “đúng phép tắc” được cộng đồng ngôn ngữ hiểu và chấp nhận. Bên cạnh đó, sự thích hợp đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao giá trị thẩm mỹ của ngôn từ (Vũ Quang Hào, 2016, 18-19). Ví dụ, đối với văn bản tin tức khoa học thì tính thích hợp nằm ở việc người viết sử dụng một cách phù hợp các thuật ngữ khoa học để truyền tải nội dung bài viết. Trên cơ sở đó, việc sử dụng và luyện tập thao tác với văn bản tin tức báo chí sẽ góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy khả năng phân tích – tư duy ngôn ngữ cho người học theo định hướng chuẩn ngôn ngữ.

          Trong những năm gần đây, việc khai thác văn bản tin tức báo chí làm tài liệu trong quá trình giảng dạy tiếng Hàn nói chung và biên dịch tiếng Hàn nói riêng đã bắt đầu nhận được nhiều quan tâm từ giới nghiên cứu giáo dục tiếng Hàn tại Hàn Quốc. Trong cuốn giáo trình Tiếng Hàn thời sự Yonsei, các tác giả đã triển khai theo mô hình Bài đọc – Luyện tập từ vựng – Trả lời câu hỏi – Luyện nói theo chủ đề - Luyện nghe với 10 chủ đề lớn bao gồm Chính trị, Quốc tế, Khoa học, Kinh tế, Xã hội, Văn hóa,… mỗi chủ đề lớn bao gồm 3 bài nhỏ có cấu trúc tương tự nhau (Trung tâm tiếng Hàn Đại học Yonsei, 2015, 4-9). Trong khi đó, giáo trình Học tiếng Hàn thời sự qua tin tức YTN được thiết kế tập trung chính vào rèn luyện kỹ năng nghe sắp xếp theo cấu trúc Dẫn nhập – Nghe tin tức – Nghe lại – Từ vựng – Ngữ pháp và Biểu hiện – Kiểm tra nội dung nghe – Luyện nói (Jang So-won, An Hyo-kyung và cộng sự, 2015, 6-7). Ưu điểm của công trình này nằm ở cách sắp xếp các ngữ pháp – biểu hiện thông dụng tương ứng với từng nội dung. Bốn chủ đề chính được tác giả lựa chọn bao gồm Chính trị - Kinh tế, Xã hội, Văn hóa – Khoa học – Môi trường và Sức khỏe – Thời tiết với 34 đơn vị bài. Mặc dù không hướng đến rèn luyện kỹ năng dịch nhưng cách sắp xếp và bố trí nội dung giảng dạy – luyện tập trong các giáo trình kể trên có nhiều giá trị tham khảo trong quá trình triển khai môn học Dịch văn bản tin tức báo chí.   

          Sau khi đã xác định được tính cần thiết của học phần, bước kế đến là lựa chọn tin tức làm ngữ liệu cho quá trình dạy và học. Văn bản tin tức báo chí được sử dụng làm ngữ liệu cần đáp ứng những yêu cầu sau: Đảm bảo tính tin cậy của tin tức, tin phải được đăng tải trên những kênh ngôn luận có uy tín, có nguồn gốc rõ ràng Đảm bảo tính bao quát và khách quan của tin tức, Đảm bảo tính cập nhật của tin tức, ưu tiên những tin tức mang tính thời sự, Đảm bảo tính hấp dẫn của tin tức, ưu tiên những tin có nhiều chi tiết nổi bật, sinh động.

          Trong bài tham luận này, do giới hạn về phạm vi nghiên cứu, nhóm tác giả sẽ chỉ tập trung vào mảng khai thác nguồn tư liệu dịch Việt – Hàn phục vụ cho môn Dịch văn bản tin tức báo chí. Theo đó, ngoài việc cần phải đáp ứng được bốn đặc trưng nêu trên, nguồn tư liệu dịch Việt – Hàn cần khai thác cũng cần có nội dung đã qua hiệu đính để người dạy và người học dễ dàng tham khảo. Cụ thể, bản gốc của nội dung tin tức cần phải đáp ứng chuẩn ngôn ngữ tiếng Việt và bản dịch tham khảo cần phải có sự hiệu đính của chuyên gia và đáp ứng chuẩn ngôn ngữ tiếng Hàn. Với những yêu cầu khắt khe như trên, trong bài viết này, nhóm nghiên cứu tập trung đề xuất vấn đề khai thác nguồn tư liệu dịch Việt Hàn từ chương trình phát thanh tiếng Hàn thuộc Ban Đối ngoại, Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV). Về phạm vi nội dung, trên cơ sở phân tích những đặc điểm của văn bản tin tức báo chí từ cơ sở dữ liệu trên, nhóm nghiên cứu sẽ tiến hành thiết kế thực nghiệm việc khai thác tư liệu và áp dụng trong quá trình giảng dạy dịch văn bản tin tức báo chí. Phương pháp nghiên cứu chính được sử dụng trong quá trình thực hiện bài viết bao gồm phương pháp khảo cứu tư liệu, phương pháp thống kê, phương pháp thực nghiệm và lấy phản hồi từ người học.

          2. Giới thiệu về nguồn cơ sở dữ liệu đăng tải trên kênh phát thanh đối ngoại Đài Tiếng nói Việt Nam

Ngày 7/9/1945, Ban Đối ngoại (VOV5) của Đài tiếng nói Việt Nam đã ra mắt chương trình phát sóng đầu tiên với ba thứ tiếng Tiếng Anh, tiếng Pháp, Tiếng Quảng Đông và tiếp theo đó thêm hai tiếng Bắc Kinh và Quốc tế ngữ. Từ năm 1945 đến năm 1954, Ban Đối ngoại duy trì phát thanh các chương trình tiếng Pháp, Anh, Quảng Đông, Bắc Kinh, đồng hành cùng nhân dân Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tới năm 1954, chương trình phát thanh tiếng Quốc tế ngữ bị loại bỏ và phát thêm tiếng Lào. Từ năm 1955 tới 1975 trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ của dân tộc, Ban Đối ngoại VOV5 đã ra mắt thêm các chương trình phát thanh các ngôn ngữ mới như tiếng Thái Lan, Nhật Bản, Indonesia, Campuchia, Tây Ban Nha, Nga, Triều Tiên. Chương trình phát thanh bằng Tiếng Đức được ra mắt chính thức vào ngày 1/3/2006. Tới thời điểm hiện tại, VOV5 đang duy trì và phát triển 13 chương trình phát thanh bằng tiếng Anh, Pháp, Nga, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Trung Quốc, Đức, Hàn Quốc, Lào, Thái Lan, Campuchia, Indonesia và tiếng Việt. Trang web vovworld.vn là trang web chính thức của Ban Đối ngoại VOV5, đăng tải các chương trình phát thanh dưới hình thức văn bản và cả phát thanh.[2]

Ngày 15/8/2018, chương trình bằng Ngôn ngữ Hàn Quốc bắt đầu được đăng tải trên trang web của Ban Đối ngoại VOV5. Tuy nhiên tới 18h ngày 7/9/2018, Chương trình phát thanh Tiếng Hàn Quốc mới chính thức được ra mắt nhân kỷ niệm 73 năm thành lập Đài Tiếng Nói Việt Nam. Việc VOV ra mắt chương trình phát thanh Tiếng Hàn Quốc thể hiện sự khăng khít, gắn kết trong mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Chương trình tiếng Hàn hướng tới các đối tượng người Hàn Quốc có quan tâm tới thời sự và văn hoá Việt Nam, người Việt Nam tại Hàn Quốc hoặc biết tiếng Hàn. Chương trình phát thanh Tiếng Hàn Quốc bao gồm các chuyên mục như: Tin tức (뉴스), Tiêu điểm kinh tế (경제의 초점), Văn hoá Việt Nam (문화의 ), Lời chào từ Hà Nội (하노이 인사), Sắc màu dân tộc (베트남 민족의 색깔 탐구)... ngoài ra còn có chuyên mục Quan hệ Việt – Hàn (- 관계) dành cho những độc giả quan tâm và muốn tìm hiểu về quan hệ và tình hữu nghị Việt – Hàn.[3]


Các tin tức và bài chuyên mục trước khi đăng tải trên VOV5 được thực hiện qua một quy trình chọn lọc và chỉnh sửa kỹ càng. Sau khi bản thảo tin tức được duyệt bởi lãnh đạo ban sẽ được đăng tải trong email nội bộ của Ban đối ngoại VOV5, quản lý của ban tiếng Hàn sẽ chọn lọc những bài viết phù hợp có thể sử dụng cho trang tiếng Hàn, tiến hành hiệu đính lượt 1 về câu từ và ngữ. Sau đó các bài viết sẽ được chia cho các biên tập viên và cộng tác viên phụ trách từng chuyên mục và tiến hành biên dịch. Bản dịch sẽ được gửi tới chuyên gia người Hàn hiệu đính và chỉnh sửa. Ở khâu cuối cùng, trước khi bài viết được đăng tải trên trang vovworld.vn, biên tập viên sẽ tiến hành bước hiệu đính một lần nữa để đảm bảo tính chuẩn xác của thông tin. Sau khi trải qua lượt hiệu đính cuối cùng, bài viết sẽ được đăng tải tại trang tiếng Hàn của Ban Đối ngoại VOV5. Dưới đây là bảng khái quát về các chuyên mục đăng tải trên chương trình phát thanh tiếng Hàn.


(Từ viết tắt: TT – Tin tức, CM – Chuyên mục, GT – Giải trí)

Bảng 1: Thống kê nội dung chương trình phát thanh tiếng Hàn – Đài Tiếng nói Việt Nam[3]

 

Dựa trên khảo sát, các chuyên mục như Sắc màu dân tộc, Tin tức, Văn hoá Việt Nam, Đời sống xã hội, Tiêu điểm kinh tế, Khám phá Việt Nam, Tiêu điểm tuần, Lời chào từ Hà Nội, Chuyện cuối tuần đều có các ngữ liệu phù hợp có thể khai thác làm tư liệu cho học phần Dịch văn bản tin tức báo chí dành cho các đối tượng sinh viên năm 3, năm 4. Trong đó, Tin tức là chuyên mục chứa nhiều chủ đề phong phú, đa dạng hơn cả. Đây là chuyên mục được cập nhật nhiều lần hằng ngày và có nguồn thông tin đa dạng về các lĩnh vực như Kinh tế, chính trị, xã hội, thể thao, IT, dịch bệnh,... đảm bảo tính cập nhậttính hấp dẫn cho môn học. Ngoài ra, chuyên mục này cũng độ dài và mức độ khó vừa phải, phù hợp với kiến thức của sinh viên năm 3 năm 4, những đối tượng vẫn chưa thành thạo kỹ năng dịch.

Đối với các chuyên mục khác, người lựa chọn ngữ liệu cần có sự sàng lọc, điều chỉnh về dung lượng để phù hợp với thiết kế nội dung và thời gian cho bài học. Các chuyên mục này có dung lượng từ nhiều hơn, tập trung vào một lĩnh vực và đi sâu vào lĩnh vực đó, do đó có độ dài và độ khó cao hơn, đòi hỏi sự hiểu biết về kiến thức nền cao hơn. Vì vậy khi biên soạn giáo trình cần khéo léo để truyền tải các kiến thức mới, từ dễ tới khó để sinh viên có thể từng bước tiếp thu trước lượng kiến thức mới tương đối lớn.

Nhìn chung các chuyên mục của Chương trình Tiếng Hàn Quốc VOV5 có các tư liệu phong phú đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về tính cập nhậttính hấp dẫn. Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) là cơ quan ngôn luận quốc gia trực thuộc Chính phủ, được thành lập lâu đời, đồng hành cùng dân tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử và tới hiện tại cùng với quy trình kiểm định tin tức, dịch và hiểu đính nghiêm ngặt, có thể đảm bảo được tính tin cậy, tính bao quáttính khách quan. Do đó các thông tin tại VOV5 thực sự là nguồn tư liệu hữu ích và phù hợp với môn học Dịch văn bản tin tức báo chí. 

          3. Thiết kế ứng dụng nguồn tư liệu phục vụ cho môn học Dịch văn bản tin tức báo chí

          Trong quá trình tìm hiểu phương án thiết kế ứng dụng nguồn tư liệu của Chương trình phát thanh đối ngoại – Đài Tiếng nói Việt Nam phục vụ cho môn học Dịch văn bản tin tức báo chí, nhóm nghiên cứu cũng đã tìm hiểu về cách khai thác ngữ liệu trong một số giáo trình dạy biên dịch (văn bản tin tức báo chí) thông dụng tại Hàn Quốc. Về cơ bản sẽ có hai cách thiết kế tư liệu chính được áp dụng trong các giáo trình biên dịch. Thứ nhất là loại hình tập trung vào ngữ pháp – biểu hiện và thứ hai là loại hình tập trung vào từ vựng – chủ đề. Cách phân chia này chỉ mang tính chất tương đối bởi trên thực tế các giáo trình đều sẽ có những nội dung mang tính chất tổng thể từ từ vựng – ngữ pháp đến luyện tập, khái niệm “tập trung” ở đây nên được hiểu là phần kỹ năng mà tác giả ưu tiên dành phần lớn dung lượng để đề cập đến.

          Ví dụ cho loại hình tập trung vào ngữ pháp – biểu hiện, trong cuốn Nhập môn tiếng Trung Quốc thời sự, tác giả Ji Jae-woon phân chia 14 chủ đề tương ứng với 14 nhóm ngữ pháp – biểu hiện thông dụng trong ngôn ngữ báo chí tiếng Trung. Cách bố trí theo thứ tự: Đoạn văn tin tức – Từ vựng – Giải thích ngữ pháp đề bài và ví dụ - Cấu trúc bổ sung (Ji Jae-woon, 2017, 1-7). Ví dụ cho loại hình tập trung vào từ vựng – chủ đề, trong cuốn Luyện tập viết tiếng Anh và biên dịch cao cấp, tác giả Lee Eung-ho phân chia nội dung làm 4 phần theo thứ tự là chính trị, kinh tế, xã hội, giáo dục, trong đó, mỗi phần lại bao gồm từ 8 – 10 bài nhỏ. Cấu trúc thiết kế cho mỗi bài sẽ là Đoạn tin tức tiếng Hàn – Bản dịch mẫu tiếng Anh – Giải thích từ vựng và biểu hiện xuất hiện trong bài – Biểu hiện thông dụng có liên quan (Lee Eung-ho, 2017, 14-19).  

Để phục vụ cho bài tham luận, nhóm nghiên cứu đã tiến hành thiết kế bài giảng thử nghiệm và tiến hành trên đối tượng 20 sinh viên năm 3 – 4 chuyên ngành Biên phiên dịch, Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc, Đại học Ngoại ngữ, ĐHQG Hà Nội sau đó lấy ý kiến phản hồi từ phía người học[4]. Nội dung lựa chọn giảng dạy thử nghiệm là dịch văn bản tin tức thời sự chính trị Việt – Hàn thuộc kho dữ liệu của chương trình phát thanh tiếng Hàn – Đài Tiếng nói Việt Nam.

Người học được cung cấp danh mục từ vựng để tìm hiểu trước giờ học. Nội dung giờ học (3 tiết) được chia làm các hoạt động cụ thể như:

(1) Khởi động: Hướng dẫn tra cứu các thuật ngữ thời sự chính trị - Ôn tập từ vựng liên quan thông qua bài test ngắn.

(2) Phân biệt một số từ vựng gần nghĩa: Phân biệt các từ vựng thường gặp và dễ bị nhầm lẫn trong khi dịch văn bản tin tức thời sự chính trị, ví dụ như cặp 회견 회담 접견, 기관기구 단체, 실시하다 실행하다 시행하다.

(3) Một số biểu hiện thông dụng: Người học được giới thiệu về một số cấu trúc cố định thường sử dụng trong văn bản tin tức thời sự chính trị như biểu hiện về bày tỏ quan điểm, hoạt động thăm viếng ngoại giao, hoạt động liên quan đến các công tác chính trị - đoàn thể,… đồng thời luyện dịch câu ngắn.

(4) Luyện tập bổ trợ: Luyện tập dịch văn bản tin tức thời sự chính trị trên cơ sở ngữ liệu thực tế. Đối với phần này, người học được chia nhóm tiến hành dịch văn bản trên lớp đồng thời đối chiếu bản dịch giữa các thành viên để phân tích – chỉnh sửa những lỗi thông thường. Bên cạnh đó, giảng viên có thể hướng dẫn người học tự học và tra cứu thêm trên website của Ban Đối ngoại VOV5.  

Phương pháp giảng dạy được sử dụng chủ yếu bao gồm phương pháp thuyết trình, phương pháp kiểm tra thường xuyên, phương pháp so sánh và phương pháp luyện tập theo nhóm. Kết quả phản hồi thu được sau giờ học cho thấy, người học có sự đánh giá tương đối tích cực về phần thiết kế nội dung bài giảng:

·  Liên quan đến cách sắp xếp nội dung: (1) Về phân bổ nội dung giữa các phần: Rất đồng ý (15.4%) – Hoàn toàn đồng ý (84.6%). (2) Về mức độ phù hợp của độ khó văn bản: Rất đồng ý (30.8%) – Hoàn toàn đồng ý (69.2%)

·  Liên quan đến thông tin trong bài học: (1) Về mức độ hữu ích của thông tin: Rất đồng ý (15.4%) – Hoàn toàn đồng ý (84.6%). (2) Về mức độ phù hợp của thông tin và yêu cầu của chủ đề: Hoàn toàn đồng ý (100%)

·  Liên quan đến mức độ thu hoạch sau bài học: (1) Về khả năng nâng cao vốn từ vựng và biểu hiện thông dụng sau bài học: Rất đồng ý (15.4%) – Hoàn toàn đồng ý (84.6%). (2) Về mức độ tự tin hơn khi đọc – dịch văn bản tin tức thời sự chính trị trước và sau buổi học: Đồng ý (23.1%) - Rất đồng ý (61.5%) – Hoàn toàn đồng ý (15.4%).

Đặc biệt, trong phần khảo sát ý kiến bổ sung, các nội dung nhận được quan tâm và đánh giá cao từ phía người học bao gồm: (1) Nhận dạng và phân tích các biểu hiện thông dụng, (2) Phân biệt từ vựng gần nghĩa. Đây là các phần giúp người học có thể hiểu hơn về cách sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành và cách trình bày trong tiếng Việt đồng thời cung cấp một số gợi ý để có thể đọc – dịch một cách thuận lợi hơn. Phần lớn người tham gia khảo sát đều mong muốn tiếp tục tham gia các buổi học tương tự về dịch văn bản tin tức báo chí. Tuy nhiên, do đây là buổi học thử nghiệm đầu tiên đồng thời tiến hành theo hình thức học online do vậy vẫn không tránh khỏi một số hạn chế nhất định trong việc đảm bảo về thời gian, gia tăng tương tác giữa người dạy và người học,… Đây là những nội dung cần tiếp tục điều chỉnh để nâng cao hiệu quả trong những bài giảng trên thực tiễn tiếp theo.  

          4. Kết luận và kiến nghị

          Trên cơ sở giới thiệu và phân tích đặc trưng nguồn tư liệu, bài viết đã tiến hành ứng dụng nguồn tư liệu dịch Việt – Hàn cho môn học Dịch văn bản tin tức báo chí. Việc khai thác nguồn tư liệu từ chương trình phát thanh đối ngoại Đài Tiếng nói Việt Nam với sự đảm bảo xác tín về nguồn tư liệu, tính quy chuẩn về ngôn ngữ báo chí và đặc biệt là tính cập nhật và tính hấp dẫn đặt kì vọng giảm thiểu gánh nặng cho người dạy trong quá trình lựa chọn ngữ liệu cho môn học. Bên cạnh đó, đây cũng là kênh thông tin hữu ích giúp cho người học có thể nâng cao khả năng tra cứu và tự học trong quá trình học tập. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, song song với việc khai thác và sử dụng kho dữ liệu từ Đài Tiếng nói Việt Nam, người dạy cũng cần có sự cập nhật, làm mới thông tin để tránh việc sinh viên ỷ lại vào các bản dịch đã được hiệu đính trước đó trên website.  

          Đối với phần thiết kế bài giảng thử nghiệm, nhóm nghiên cứu đã tiến hành xây dựng nội dung bài giảng trên cơ sở chú trọng vào mảng luyện tập từ vựng và biểu hiện thông dụng. Mục tiêu của bài giảng hướng đến (1) Người học làm quen được với các biểu hiện và cách hành văn trong ngôn ngữ báo chí tiếng Việt, (2) Người học có thể vận dụng kiến thức đã học để luyện dịch theo từng chủ đề. Tuy nhiên, do mới chỉ là nghiên cứu mang tính đề xuất bước đầu, do vậy, để có thể tiến hành đánh giá một cách khách quan hơn hướng nghiên cứu vẫn cần tiếp tục triển khai thêm các hoạt động thực nghiệm, tiếp thu phản hồi từ người học từ đó điều chỉnh và đưa ra phương án phù hợp nhất đối với học phần.

Dịch văn bản tin tức báo chí là nội dung mang tính chất đặc thù so với các môn học biên dịch chuyên ngành khác, đặc biệt vì nó gắn với cách sử dụng ngôn ngữ báo chí. Mặc dù đã được công nhận và đưa vào chương trình giảng dạy ở nhiều đơn vị tuy nhiên cho đến nay, số lượng nghiên cứu và giáo trình phục vụ cho môn học vẫn còn ở mức rất hạn chế. Do vậy, nghiên cứu về khai thác nguồn tư liệu, xây dựng giáo trình và áp dụng phương án giảng dạy cho học phần sẽ tiếp tục là các định hướng có thể tiếp tục phát triển trong tương lai.

          Tài liệu tham khảo

Ban biên tập VOV5 (2018). “VOV5 mở trang web tiếng Hàn Quốc trên vovworld”. Ban Đối ngoại VOV5. https://vovworld.vn/vi-VN/hop-thu-thinh-gia/vov5-mo-trang-web-tieng-han-quoc-tren-vovworld-623243.vov.

Ban biên tập VOV5. “Giới thiệu Ban đối ngoại VOV5”. Ban Đối ngoại VOV5. https://vovworld.vn/vi-VN/introvov5.vov. 

Vũ Quang Hào (2016). Ngôn ngữ báo chí. NXB Thông tấn.

장소원 · 안효경 · 김수영 · 채숙희 (2015). YTN뉴스로 배우는 시사 한국어』. 박이정.

池在運 (2017). 『시사 중국어 입문』. 한국외국어대학교 지식출판원.

연세대학교 한국어학당 (2015). 『연세 시사한국어』. 연세대학교 대학출판문화원.

이응호 (2017). 『고급번역과 영작 연습』. 글로벌콘텐츠.



[2] Ban biên tập VOV5. “Giới thiệu Ban đối ngoại VOV5”. Ban Đối ngoại VOV5. https://vovworld.vn/vi-VN/introvov5.vov. Truy cập ngày 05/09/2021.

[3] Ban biên tập VOV5 (2018). “VOV5 mở trang web tiếng Hàn Quốc trên vovworld”. Ban đối ngoại VOV5. https://vovworld.vn/vi-VN/hop-thu-thinh-gia/vov5-mo-trang-web-tieng-han-quoc-tren-vovworld-623243.vov. Truy cập ngày 05/09/2021

[3] Độ khó của các chuyên mục trên được đánh giá bởi các biên tập viên và cộng tác viên của chương trình tiếng Hàn dựa trên trên ba tiêu chí: Từ vựng, Diễn đạt, Kiến thức nền đối với đối tượng là sinh viên năm 3-4. Thang điểm phân chia theo các mức: Dễ (1-2), Trung bình (2.5 – 3.5), Khó (4 – 4.5) và Rất khó (5).

 [4] Nội dung bảng hỏi khảo sát tham khảo link: Khảo sát ý kiến về buổi học thử nghiệm Dịch văn bản tin tức báo chí, https://forms.gle/m4bxaVWG2gX7prZNA, truy cập ngày 28/9/2021.

[Đàn bồ câu phường Seongbuk - Kim Gwang-seop]

  Ở phường Seongbuk phía sau Thành Quân Quán có một mảnh vườn nhỏ mang tên "Công viên bồ câu" - gợi nhớ về nơi từng là nhà của lũ ...